Bảng 1. Mức đầu tư cho KHCN nói chung ở một số nước trên thế giới


Ta thấy, theo tính theo tỷ lệ GDP các nước giầu, như Mỹ, Nhật, Tây Âu, Trung Quốc, Hàn Quốc, Nga, Israel đều có mức đầu tư cao cho R&D (xem chi tiết trong bảng). Đến 5% GDP, với giá trị tuyệt đối từ trên 10 tỷ đến hàng trăm tỷ USD. Năm 2024, một số nước có tỷ lệ đầu tư và mức đầu tư rất cao, như Hoa Kỳ 3,54% GDP, 982 tỷ USD; Trung Quốc 2,72 %, 510 tỷ USD; Nhật bản 3,32%; 140 tỷ USD; Hàn Quốc 5,3% 90,6 tỷ USD, Pháp 2,23% 60,2 tỷ USD
Các nước Đông Nam Á: Singapore 2,25%; 10,5 tỷ USD; Thái Lan 1,5% 7,7 tỷ USD; Malaysia 1,04%; 4,2 tỷ USD; Indonesia 0,3% 4 tỷ USD.
So sánh với các cường quốc KHCN ta thấy tỷ lệ chênh lệch trong đầu tư cho KHCN là rất lớn:
GDP Hoa Kỳ gấp chúng ta 65 lần, nhưng họ đầu tư cho KHCN gấp 468 lần;
GDP Trung Quốc gấp VN 44 lần, nhưng họ đầu tư cho KHCN gấp 243 lần
GDP Nhật Bản gấp chúng ta 10 lần, nhưng họ đầu tư cho KHCN gấp 69 lần,
GDP Hàn Quốc gấp chúng ta 4 lần, nhưng họ đầu tư cho KHCN gấp 43 lần.
Singapore, Thái lan, Malaisia có GDP ở khoảng tương đương với Việt Nam, nhưng họ đầu tư gấp chúng ta lần lượt là 5,1; 3,7 và 2,3 lần
Đáng lưu ý là mức đầu tư cho KHCN của Hoa Kỳ tương đương với mức đầu tư cho bộ máy quân sự khổng lồ của nước này - khoảng hơn 900 tỷ USD, trong khi đầu tư cho KHCN là 980 tỷ USD). Không chênh lệch nhiều giữa mức đầu tư cho quân sự và KHCN. Trong khi ở Việt Nam hai lĩnh vực này có mức đầu tư khá chênh lệch.
Tỷ trọng đầu tư tính theo phần trăm GDP của Việt Nam cho KHCN vào hàng thấp trên thế giới và trong khu vực – 0,4%. GDP của chúng ta chưa cao, con số tiền đầu tư cho KHCN 2024 chỉ là 2,1 tỷ USD, tức là khoảng 52 ngàn tỷ VNĐ tính theo danh nghĩa. So với các nước trong khu vực chúng ta vẫn ở phân đoạn thấp. Nếu tính tỷ lệ đầu tư theo dân số, đầu tư cho KHCN của chúng ta càng thấp khi so sánh với các nước trong khu vực. Phải nói rằng số kinh phí đến với lực lượng R&D trên thực tế còn thấp hơn nhiều. Dưới đây chúng ta sẽ bàn về cách phân phối sử dụng nguồn kinh phí này để thấy rõ hơn bức tranh về đầu tư cho R&D ở Việt Nam và những ưu, nhược điểm của hệ thống và cần thiết phải cải tiến ở khâu nào để nâng cao hiệu quả của đầu tư và vai trò của KHCN.
Đầu tư cho R&D ở Việt Nam nói chung và trong nông nghiệp nói riêng. (ở nước ta, ít có các thống kê thông suốt về đầu tư cho các linh vực, kể cả cho KHCN. Vì vậy các con số nêu dưới đây chỉ mang tính chất tham khảo, con số chính xác cần được các cơ quan chuyên môn chịu trách nhiệm trong lĩnh vực cung cấp )
Năm 2023 Bộ KHCN được cấp 2600 tỷ (khoảng hơn 100 triệu USD) cho hoạt động nghiên cứu trong tất cả các lĩnh vực, trong đó có nông nghiệp. Do những khó khăn trong cơ chế kế hoạch, cấp phát kinh phí, tổ chức thực hiện, trong đó công tác đấu thầu, một lượng lớn kinh phí không được sử dụng và đã được trả lại ngân sách.
Năm 2024, Bộ KHCN được cấp 3000 tỷ, cũng vì các lý do như trên, một lượng kinh phí đáng kể đã bị trả lại ngân sách (con số chi tiết cụ thể, xin tham khảo bộ KHCN).
Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn là bộ rất lớn, gốm 5 bộ gộp lại: Bộ Nông nghiệp, Bộ Công nghiệp thực phẩm, Bộ Thủy lợi, Bộ Thủy sản, Bộ Lâm nghiệp. Bộ NN&PTNN có đến 60 Viện/trung tâm nghiên cứu. Mỗi năm Bộ này được cấp hơn 700 tỷ. Trong đó đã bao gồm cả lương. Năm 2025 dự kiến bộ sẽ được cấp 760 tỷ, trong đó 430 tỷ dành cho lương. Chỉ còn 330 tỷ dành cho R&D. Trung bình mỗi viện/trung tâm chỉ được cấp (qua đấu thầu đề tài, dự án) khoảng 5 tỷ là tối đa. Mức đầu tư này quá thấp so với ngưỡng cần có để đầu tư có thể phát huy tác dụng.
Như vậy ta thấy, trên danh nghĩa, KHCN được đầu tư 2,1 tỷ tướng đương 52 ngàn tỷ đồng, nhưng đến được với lực lượng R&D còn lại con số rất thấp.
Công tác kế hoạch cho niên khóa tài chính cũng là vấn đề lớn. Bộ KHCN rất phụ thuộc vào việc cấp kinh phí từ Bộ Tài Chính nên khó có thể chủ động hoạch định kế hoạch của các chương trình R&D của mình chứ chưa nói đến xây dựng các chiến lược trung hạn và dài hạn và thực hiện phân công nhiệm vụ mỗi cơ sở R&D theo mạng lưới quốc gia.
Đội ngũ các nhà khoa học ở Việt Nam:
Đội ngũ cán bộ khoa học giảm nghiêm trọng về chất lượng: Nhân lực R&D cũng mỏng, tỷ lệ nhân lực R&D trên số dân quá thấp, chưa tới 10 người/1 vạn dân, tương đương 7,6% của Hàn Quốc, 29,8% của Malaysia, 58% của Thái Lan. Chất lượng nhân lực R&D còn nhiều hạn chế và bất cập. Nguồn nhân lực R&D của Việt Nam chủ yếu đến từ khu vực nhà nước chiếm hơn 84% trong khi khu vực ngoài nhà nước chiếm chưa đầy 14%.
Với mức lương như hiện nay, đã hàng chục năm nay các cán bộ trẻ được đào tạo bài bản từ các nguồn khác nhau đã không về các viện nghiên cứu công tác. Số cán bộ đã công tác hàng chục năm ở các viện nghiên cứu, được đào tạo bài bản, được cho là đã trưởng thành, đã có thể tiếp cận với thực tiễn và đề xuất được ý tưởng khoa học vào giải quyết các vấn đề thực tiễn, trong thời gian vừa qua đã lần lượt ra đi. Địa điểm họ đến là bất kỳ nơi nào để có thể tồn tại được: Công ty, lập nghiệp, bỏ việc hay đi làm cho công ty nước ngoài, làm công việc khác không liên quan đến ngành nghề đã học....Để bù đắp lại mất mát này chúng ta cần 10-20 năm để làm lại từ đầu.
Một lưu ý là các trong giới cán bộ khoa học trẻ hiện nay đã hình thành tư tưởng không tích cực về hệ thống nghiên cứu KHCN, vì vậy nếu muốn xây dựng lại hệ thống KHCN, cần phải làm nhanh và quyết liệt mới hy vọng vào sự phục hồi mong đợi của hệ thống KHCN. Nếu không, tư tưởng tiêu cực này sẽ ảnh hưởng lâu dài lên hệ thống làm phá sản mọi chính sách về KHCN.
Cấp phát đề tài dự án- hoạt động đầu tư cho nghiên cứu phát triển trong lĩnh vực nông nghiệp:
Với tình hình đầu tư như trên đã nói trên cho KHCN, kể cả trong các chương trình của Bộ NN&PTNT và Bộ KHCN, thì mức đầu tư cho các đề tài dự án là không nhiều, không thay đổi được cục diện bế tắc về kinh phí hoạt động của ở các viện trung/tâm KHCN hiện nay. Hơn nữa đã vài năm nay việc phê duyệt ký hợp đồng khởi động các đề tài dự án của Bộ KHCN đều bị đình trệ do nhiều nguyên nhân khác nhau. Trong đó có hệ quả của các quy chế tài chính cho KHCN và COVID gây ra. Từ chỗ là nguồn tài trợ chính cho nghiên cứu, hai Bộ NN&PTNT và Bộ KHCN đã không thực hiện được vai trò của mình do thiếu kinh phí (Bộ NN&PTNT) và Bộ KHCN - do cơ chế kế hoạch, chính sách và thiếu kinh phí. Quỹ đầu tư NAFOSTED yêu cầu đăng bài quốc tế là trọng tâm, trong khi các viện, trường Bộ NN đều được yêu cầu hướng tới sản phẩm ứng dụng cho nên quỹ này hầu như không dành cho NN. Cũng cần phải nói rằng, với mức đầu tư khoảng 1 tỷ VNĐ cho một đề tài NAFOSTED với yêu cầu giao nộp 2 bài báo quốc tế thì có thể thấy ngay chất lượng thực của các công bố này. Để trả bài cho chương trình thì có thể, nhưng để định hướng đến sản phẩm ứng dụng thì còn quá xa.
Nguyên nhân của tình trạng yếu kém trong KHCN ở Việt Nam
Ở đây không thể chỉ nói đến KHCN nông nghiệp mà phải nói đến KHCN tồng thể, vì KHCN trong nông nghiệp không thể tách rời KHCN nói chung, để phân tích được động lực này, trước hết chúng ta phải đi vào nguyên nhân gây ra yếu kém của KHCN Việt Nam
1. Xuất phát điểm thấp kém: Chúng ta bắt đầu xây dựng hệ thống KHCN chỉ từ sau ngày giải phóng Miền Nam. Thực chất là chỉ sau khi đổi mới đầu những năm 1990 chúng ta mới có một lượng kinh phí hết sức khiêm tốn để đầu tư cho KHCN. Lúc đó kinh tế vô cùng khó khăn, cán bộ KHCN chủ yếu dựa vào nguồn đào tạo từ LX và Đông Âu. Giai đoạn này đặt mục tiêu duy trì được sự tồn tại của hệ thống KHCN đã là thắng lợi. Thực tế KHCN của chúng ta đã đi lên từ “số không” từ những năm 70-80 thế kỷ trước.
2. Tổ chức hệ thống không dựa trên thực tế của đất nước, sao chép máy móc mô hình Liên Xô: Hệ thống KHCN của LX lúc đó thiên về nghiên cứu cơ bản, thỏa mãn ý tưởng tìm tòi sáng tạo của nhà khoa học mà không hướng đến thị trường. Điều này đã truyền hầu như toàn bộ sang các nhà khoa học đầu nghành của Việt Nam và hệ thống nghiên cứu nói chung. Đặc biệt là các trường đại học lớn như các ĐHQG, viện Hàn Lâm. Không phải là bí mật là các sản phẩm KHCN ứng dụng cho thực tiễn từ các cơ quan có lực lượng khoa học trình độ cao, chủ chốt của đất nước này lại rất khiêm tốn. Cán bộ các cơ quan này thi đua nhau trong lĩnh vực đăng bài báo quốc tế để tăng hạng trường, làm học hàm học vị, để tuyển sinh và phục vụ đào tạo thay vì hướng đến thực tế sản xuất và xã hội. Chưa có sự kết hợp các định hướng này với phát triển sản phẩm KHCN ứng dụng cho phát triển kinh tế xã hội.
3. Chạy theo bài đăng theo trào lưu quốc tế: Cũng cần phải nói rằng với mức đầu tư cho R&D quá khiêm tốn như của chúng ta, thì việc có những công trình có giá trị sánh ngang với các nước giầu có trên thế giới là không thể (xem bảng trên). Khi các cán bộ khoa học ở Việt Nam bị thúc chạy theo bài đăng còn mất đi khả năng tiếp cận thực tế để phát triển ứng dụng. “Cao không tới, thấp không thông” là tình trạng phổ biến của nhiều nhóm cán bộ khoa học Việt Nam. Chưa nói đến việc năng lực của các cán bộ khoa học của chúng ta còn rất nhiều hạn chế, cả về trình độ lẫn kinh nghiệm trong nền kinh tế thị trường và khả năng tiếp cận thực tế. Nhiều nhóm nghiên cứu đã bỏ qua một điều rằng mục tiêu cuối cùng của KHCN là làm ra sản phẩm phục vụ xã hội, phục vụ sản xuất. Từ phương tiện, công bố quốc tế ở Việt Nam đã biến thành mục tiêu của nhiều nhóm các cán bộ khoa học. Chưa bao giờ chúng ta có đánh giá mức độ chuyển hóa của các công bố quốc tế này thành sản phẩm hữu dụng cho doanh nghiệp, người dân Việt Nam hay thế giới nói chung. Vì vậy cần có các đánh giá và có sự cân đối thông minh giữa thỏa mãn say mê tìm tòi sáng tạo, đăng bài và phát triển sản phẩm ứng dụng. Nhất là trong điều kiện một nước nghèo như Việt Nam! Vì vậy các công bố từ Việt Nam thường rất ít có giá trị cho doanh nghiệp và nhà sản xuất. Đầu tư không mang lại hiệu quả cho sản xuất thực tiễn làm nản lòng Quốc Hội, Chính Phủ và các nhà quản lý. Từ đó nguồn tiền đầu tư càng thắt chặt. Chúng ta đang trong vòng luẩn quẩn này.
4. Hệ thống đào tạo và nghiên cứu tách rời: ở phần lớn các nước phương tây, hệ thống trường đại học là cái nôi sản sinh ra các sản phẩm KHCN tiên tiến, bên cạnh nguồn nhân lực chất lượng cao. Việc tham gia của các giảng viên vào việc tạo ra các sản phẩm ứng dụng trực tiếp hay gián tiếp qua IP đã là một trường học vô cùng hiệu quả cho đội ngũ giảng viên và sinh viên. Góp phần vô hình, nhưng rất to lớn vào nâng cao chất lượng giảng viên và sinh viên. Ở nước ta hệ thống nghiên cứu và giảng dạy tách rời không cho phép tạo nên những trường “đại học nghiên cứu” mạnh (Research University). Cũng cần phải nói rằng, trong nghiên cứu khoa học, thường chỉ khoảng 10% nhiệm vụ tạo ra được kết quả ứng dụng, các nhiệm vụ còn lại cần phải được sử dụng cho giảng dạy, nâng cao chất lượng sinh viên và đội ngũ giảng viên. Hệ thống tách rời nghiên cứu và giảng dạy của chúng ta không cho phép sự kết hợp này. Gây lãng phí vô hình, nhưng rất lớn. Cần phải xác định nghiên cứu trong các trường đại học có vai trò vô cùng to lớn cả trong việc nâng cao chất lượng giảng viên và sinh viên thông qua các đóng góp trực tiếp của các trường đại học, góp phần rút ngắn thời gian tiếp cận thực tế của sinh viên sau khi ra trường. Cần có sự thay đổi quyết liệt trong chiến lược xây dựng nghiên cứu trong các trường đại học.
5. Chúng ta không có chính sách hợp lý để đào tạo nhân lực chất lượng cao cho KHCN. Ở các nước, nghiên cứu sinh tiến sỹ, thạc sỹ hay thực tập sau tiến sỹ không phải đóng học phí, lại được trả lương để thực hiện các dự án nghiên cứu. Bằng cách này, xã hội đã tận dụng được nguồn nhân lực chất lượng cao, trẻ tuổi, khát vọng phát triển KHCN vào thực hiện mục tiêu của các chương trình KHCN. Đồng thời, lại đào tạo nguồn nhân lực cho tương lai bằng phương pháp “học bằng làm” dưới sự hướng dẫn của các cán bộ khoa học đầu ngành. Đó là loại trường học không thể tốt hơn. Thế nhưng, ở nước ta các NCS tiến sỹ, thạc sỹ không có lương đã đành, phải lo học phí, lại còn ít khi có đề tài để thực hiện các luận án tốt nghiệp, do đó chất lượng đào tạo sau đại học chắp vá và ở trình độ thấp kém. Ngoài ra chúng ta cũng không có chế độ thực tập sinh sau tiến sỹ (postdoc fellow) – một hình thức đào tạo tiếp theo bằng việc tham gia của NCS sau khi tốt nghiệp vào môi trường nghiên cứu thực sự dưới sự chỉ đạo của các giáo sư đầu ngành - rất hiệu quả ở các nước phương tây. Hình thức đào tạo này giúp các tiến sỹ trẻ phát triển đến “chín muồi” trong môi trường nghiên cứu thực thụ trước khi thực sự độc lập bước vào sự nghiệp của mình. Không xây dựng được các đại học nghiên cứu mạnh là chúng ta bỏ qua một cơ hội đào tạo chất lượng cao và một lực lương lớn cán bộ có tiềm năng đóng góp lớn cho KHCN.
6. Đóng góp của các khổi nghiên cứu rất không đồng đều: Trong các khổi nghiên cứu, chỉ có các viện và một số trường ngành nông nghiệp là có hiệu quả trong việc tạo ra sản phẩm phục vụ sản xuất, khối còn lại phần nhiều chỉ tập trung vào đăng bài như đã nói ở trên. Trong khi ở khối này tập trung lực lượng khoa học lớn và có trình độ cao. Cũng phải nói rằng trong lĩnh vực nông nghiệp với mức đầu tư rất khiêm tốn như vậy, KHCN đã giúp đưa đất nước thoát khỏi cảnh nghèo đói phải nhập khẩu lương thực những năm 80 của thế kỷ trước lên đến xuất khẩu hơn 60 tỷ USD năm 2024. Thành tựu này của KHCN nông nghiệp khó có nước nào so sánh được.
7. Hệ thống doanh nghiệp còn non trẻ: mới được khuyến khích phát triển từ những năm 90 của thế kỷ trước, phần lớn các doanh nghiệp chưa đủ sức đầu tư cho KHCN, trừ một số doanh nghiệp trong lĩnh vực công nghệ thông tin cá biệt thời gian gần đây thôi. Thậm chí đa số các doanh nghiệp chưa đủ sức hấp thụ thành quả của nghiên cứu khoa học công nghệ, từ các công bố hay sản phẩm tiền đề (prototype) để phát triển ra sản phẩm thương mại. Doanh nghiệp tham gia vào các chương trình KHCN vẫn nhằm trông chờ vào nguồn kinh phí ít ỏi của nhà nước. Trong hoàn cảnh như vậy khẩu hiệu “Ưu tiên phát triển KHCN” mà ta thường nói là không phù hợp trong bối cảnh KHCN và hệ thống doanh nghiệp còn yếu kém ở nước ta. Có lẽ trong các lĩnh vực khoa học công nghệ nên định hướng lại là: “Ưu tiên phát triển khoa học công nghệ phù hợp với sức hấp thụ của sản xuất và doanh nghiệp và xã hội” là thích hợp hơn.
8. Hệ thống các cơ sở R&D của chúng ta quá cồng kềnh so với kinh phí cho phép và trình độ tổ chức. Sơ bộ, chúng ta có tới 478 tổ chức R&D, bao gồm: 301 tổ chức trực thuộc Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, các Đại học quốc gia, các Tổng cục, Học viện và các đơn vị tương đương; 170 tổ chức thuộc thẩm quyền quản lý của UBND cấp tỉnh. Đó là chưa kể đến 500 viện trung tâm thuộc liên hiệp hội KHKT (VUSTA). Tâm lý “trời sinh voi trời sinh cỏ” là phổ biến trong các Bộ, ngành, địa phương và các cơ quan tương đương, mà không hiểu được rằng KHCN thực tế là cuộc chơi của những nhà giàu. Nó chỉ phát huy hiệu quả khi được đầu tư đến ngưỡng mà thôi. Còn nếu được đầu tư không đến ngưỡng, trong phần lớn các trường hợp là lãng phí. Nhất là trong giai đoạn hiện nay, khi chúng ta đang chuyển mình từ “thuần túy ứng dụng công nghệ” sang “sáng tạo ra công nghệ”.
9. Phân bổ kinh phí chưa hợp lý: Nếu nói kinh phí cho KHCN năm 2024 là 2,1 tỷ USD thì đó là con số tương đối cao với các nước đang phát triển nghèo trên thế giới và quy mô kinh tế của chúng ta. Thế nhưng kinh phí này lại bị chia ra nhiều nguồn, kênh, khác nhau và được phân bổ qua các Bộ, như Bộ Kế hoạch đầu tư, Bộ Tài chính, không đảm bảo rằng nguồn lực này đến tay lực lượng R&D của hệ thống. Thực tế đến với Bộ KHCN năm 2024 chỉ là 3000 tỷ, Bộ NN&PTNT chỉ là 730 tỷ. Với nguồn kinh phí như thế và số cơ sở R&D như ta thấy, chắc chắn một điều là các cơ sở R&D này không phát huy được hiệu quả. Mà đó lại là sự lãng phí. Lãng phí kéo dài! Công tác kế hoạch của chúng ta chưa tạo ta sự chủ động của của các cán bộ khoa học và cơ quan quản lý KHCN cũng làm giảm hiệu quả đầu tư đi rất nhiều. Nếu Bộ KHCN là cơ sở chịu trách nhiệm về KHCN của cả nước hàng năm được cấp 53 ngàn tỷ/năm (2,1 tỷ USD- 2024) thì Bộ đã có thể chủ động có kế hoạch chiến lược trung hạn, dài hạn và phân công lao động cho cả hệ thống KHCN. Điều đó sẽ là một yếu tố góp phần cho KHCN thăng hoa.
10. Cơ chế tài chính góp phần không nhỏ vào khó khăn của hệ thống khoa học. Đơn cử, trong một thuyết minh đề tài 300 trang thì có đến hơn 200 trang dành cho thuyết minh về tài chính. Việc xây dựng thuyết minh tài chính, thanh quyết toán tài chính là phần nặng nề nhất của việc thực hiện tất cả các nhiệm vụ KHCN mà bất cứ cán bộ khoa học nào cũng e ngại đụng đến. Trong khi theo thông lệ quốc tế, người ta chỉ chia kinh phí ra làm 4 mục: i) Lương, ii) Vật tư hóa chất, dụng cụ, máy móc; iii) Đi lại và iv) Chi khác. Cho phép thay đổi 10% so với dự toán không cần báo cáo. Nếu thay đổi nhiều hơn, thủ tục xin phép chỉ là email đề nghị và email phản hồi đồng ý là đủ. Trong khi đó hệ thống tài chính của các Bộ của chúng ta duyệt đến từng cân hóa chất với giá mua đã chốt, rất không hợp lý trong cơ chế biến động linh hoạt của thị trường và đặc thù của hoạt động KHCN. Buộc chủ nhiệm đề tài phải biến tấu. Sự biến tấu này nhiều khi bị lợi dụng. Một số cơ quan như ĐHQG HN đã chủ động thay đổi quy chế tài chính thuận tiện hơn cho chủ nhiệm nhiệm vụ và được hoan nghênh từ phía cán bộ KH. Nhưng thường những nhiệm vụ của cơ quan này không lớn, chỉ phục vụ công tác đào tạo. Cơ chế thanh quyết toán vẫn là vấn đề ám ảnh đối với cán bộ KH. Một thực tế hiện nay là mỗi nhiệm vụ khoa học cần một cán bộ phụ trách thanh toán riêng, mặc dù phòng tài vụ mỗi viện/trung tâm đã có biên chế không nhỏ. Điều này rất lãng phí nguồn lực. Nếu ta tiến tới trả lương cao hơn cho cán bộ như chính phủ dự kiến, thì không thể duy trì cơ chế này bởi vì đơn giản là không có lương để chi trả. Khi tham khảo quy chế tài chính các nước phát triển, chúng tôi thấy họ chuyên môn hóa rất cao. Cán bộ khoa học không phải lo đến việc mua sắm, giải ngân. Họ chỉ cần nêu yêu cầu, cơ quan chủ trì sẽ cung cấp vật tư hóa chất, thiết bị như đòi hỏi trong khuôn khổ kinh phí họ được sử dụng. Việc của cán bộ khoa học là tập trung vào công tác chuyên môn.
11. Hầu như thiếu vắng đầu tư cho KHCN từ khối tư nhân: Cốt lõi của hệ thống KHCN ở các nước tư bản là hệ thống doanh nghiệp tư nhân. Đó là cơ quan hấp thu các thành quả của nghiên cứu khoa học và tạo ra sản phẩm thương mại từ nghiên cứu, và cũng là nguồn đầu tư quan trọng cho khoa học. Cơ chế tài chính của chúng ta không khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư vào KHCN cũng là do sự phức tạp của quy trình đầu tư. Dẫn đến tình trạng nhiều doanh nghiệp có nguồn vốn đầu tư nhưng không đầu tư cho nghiên cứu.
12. Cơ chế đánh giá cán bộ không phù hợp. Chúng ta duy trì chính sách biên chế cả đời không tạo ra động lực lao động cho cán bộ. Thường là sau khi vào được biên chế nhà nước cán bộ giảm, thậm chí, mất động lực để phấn đấu. Trừ các trường hợp phấn đấu thăng tiến hay vì lợi ích vật chất từ công việc. Cơ chế này cần được cải tiến càng nhanh càng tốt: Hợp đồng dài hạn với cán bộ trưởng nhóm, hợp đồng theo nhiệm kỳ nhiệm vụ đối với đại bộ phận cán bộ khoa học khác. Cán bộ hợp đồng dài hạn (trưởng nhóm) toàn quyền lựa chọn người giúp việc và được đánh giá nghiêm túc theo mỗi năm năm bởi hội đồng độc lập. Trưởng nhóm toàn quyền lựa chọn người giúp việc, kể cả sa thải. Lãnh đạo sơ sở R&D được đánh giá theo theo nhiệm kỳ 5 năm.
13. Tự chủ, tự chịu trách nhiệm trong hệ thống R&D là một áp dụng sai lầm (ở đây nói đến tự chủ xuất phát từ nghị định 115). Đã góp phần không nhỏ vào làm suy yếu hệ thống KHCN ở các viện như hiện nay. (Ở đây không bàn đến tự chủ trong đào tạo).
Nghị định tự chủ, tự chịu trách nhiệm cho phép các cơ sở R&D tự chủ về nhân lực, về hạ tầng và về tài chính, về tổ chức Sau quá trình thực hiên gần 20 năm, ta thấy chính sách này ngày càng tỏ ra bất cập. Có lẽ, nhiều yếu tố chưa được xem xét kỹ lưỡng trong khuôn khổ chính sách này. Đó là i) Nhân sự của chúng ta được quản lý theo luật công chức, viên chức. Không có cơ sở R&D nào có thể sa thải, tuyển dụng, bổ nhiệm nhân sự theo cách khác được. ii) Về tài chính, khi đấu thầu được nhiệm vụ thì, kinh phí đã được cơ quan quản lý phân chi tiết từng đồng. Không có chỗ nào cho tự chủ kinh phí ở đây. Nhiều Bộ không cấp kinh phí cho hoạt động thường xuyên, vì vậy ở đây họ cũng không có gì để tự chủ. iii) Về hạ tầng, tài sản sở hữu trí tuệ được quản lý theo các luật tương ứng, không thể làm khác. iv) Về tự chủ hướng nghiên cứu, nghe có vẻ hợp lý nhưng lại là chỗ yếu nhất của quy chế này. Vì một một cơ sở R&D, bất kỳ cấp viện, trung tâm hay phòng, đều được thành lập với một chức năng nhiệm vụ nhất định (nhiệm vụ chính trị- như ta thường nói) và phải được cấp kinh phí từ ngân sách nhà nước để thực hiện nhiệm vụ chính trị này. Nay, ta yêu cầu các cơ sở R&D tự chủ về hướng nghiên cứu để không phụ thuộc vào ngân sách, thì vô hình chung, chúng ta đã tách rời họ khỏi nhiệm vụ chính trị được chỉ định này. Chủ động tạo ra yếu tố chống chéo, làm rối loạn hệ thống nghiên cứu vốn đã không mấy nề nếp của chúng ta. Có những lĩnh vực thì nhiều viện/trường tranh nhau lao vào, có những lĩnh vực bỏ ngỏ, mặc dù cần thiết. Sự phân công nhiệm vụ ban đầu bị vô hiệu hóa. Lẽ ra, các cơ sở R&D này phải có nguồn kinh phí thường xuyên ổn định để theo đuổi phân công của nhà nước. Nếu nhiệm vụ trở lên không cần thiết thì thay đổi, sát nhập, giải thể thông qua các đánh giá khách quan của cơ quan quản lý. hội đồng chuyên môn. Lãnh đạo cơ sở R&D không hoàn thành nhiệm vụ cơ sở mình được giao thì cho nghỉ việc. Chỉ có như thế chúng ta mới có hệ thống khoa học công nghệ lành mạnh. So sánh tự chủ trong khoa học với khoán 10 trong nông nghiệp có lẽ không hợp lý. Vì khoán 10 trong nông nghiệp đã được nông dân và lãnh đạo các địa phương “ngầm” thực hiện ở nhiều nơi, nhiều năm, sau đó được đúc rút lại thành nghị quyết khoán 10 rất nổi tiếng. Khoán mười trong nông nghiệp trên thực tế đã được đổi bằng mồ hôi, nước mắt của nông dân và sự nghiệp chính trị của nhiều lãnh đạo các địa phương. Được đúc rút từ thực tế cuộc sống sản xuất của nông dân, không phải là sản phẩm phòng điều hòa. Chính vì thế nó đã cứu cả đất nước này thoát khỏi đói nghèo những năm 80-90 của thế kỷ trước! Áp dụng một cách máy móc kinh nghiệm này dẫn đến hệ quả tai hại như chúng ta đã thấy trong thực tế là: Hệ thống nghiên cứu đã bị suy yếu đi một cách rõ rệt.
14. Hệ thống lương quá thấp, lại bị duy trì trong thời gian dài. Trong khoảng 3-4 năm gần đây các viện Bộ Nông nghiệp chỉ được cấp 50%-60% lương. Có nghĩa là họ chỉ được lĩnh lương 5-6 tháng, nếu không có đề tài/dự án. Những tháng còn lại, nếu không có đề tài trả lương thì họ không những không có lương mà còn phải tự đóng bảo hiểm. Chính sách này không giữ chân được cán bộ. Cán bộ mới tốt nghiệp không vào các cơ sở nghiên cứu, cán bộ cử đi học nước ngoài theo ngân sách nhà nước cũng không trở về. Để bù đắp được lỗ hổng này, chúng ta cần 10-20 năm hoặc là rất nhiều tiền để thu hút cán bộ trở lại.
Nếu ngay bây giờ chúng ta bắt đầu đầu tư mạnh mẽ cho KHCN thì KHCN vẫn chưa thể cất cánh được ngay như mong đợi của các nhà lãnh đạo. Vì trong KHCN phải bắt đầu từ xây dựng lực lượng cán bộ chuyên môn cao. Mà việc này không thể hoàn thành một sớm một chiều. Phải mất hàng chục năm nuôi dưỡng mới có được một cán bộ đủ sức tiếp cận thực tế và đặt ra các giải pháp KHCN để giải quyết vấn đề của thực tế. Trừ khi chúng ta sẵn sàng bỏ ra một khoản tiền rất lớn để thuê chuyên gia nước ngoài. Đội ngũ này cũng rất khó thích nghi với điều kiện thực tế ở Việt Nam
Động lực đột phát vươn mình trong nghiên cứu phát triển lĩnh vực khoa học nông nghiệp.
Tác động của việc khắc phục tính trạng yếu kém của KHCN
1. Từ thế kỷ 18, khi cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ nhất diễn ra, Mác đã dự đoán KHCN sẽ trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp. Ngày nay xu hướng này ngày càng rõ rệt. KHCN đã thực sự trở thành lực lượng sản xuất đóng góp trực tiếp cho phát triển kinh tế xã hội thông việc tạo ra các sản phẩm KHCN. Nước ta đang bước vào giai đoạn chuyển dần từ thuần túy ứng dụng công nghệ sang giai đoạn sáng tạo ra công nghệ. Bước đi này quyết định ta có thể thoát bẫy thu nhập trung bình hay không? Không khắc phục tính trạng yếu kếm về KHCN nói trên, chúng ta không thể chuyển lên giai đoạn sáng tạo ra công nghệ thành công.
2. KHCN phải được xác định là công cụ của chính phủ, của các nhà quản lý để đạt được mục tiêu kinh tế xã hội của đất nước. Cơ quan quản lý ở các bộ thông qua tham vấn các chuyên gia tâm huyết, sâu sát thực tế, phải là người thay mặt chính phủ hoạch định chính sách KHCN, bao gồm mức đầu tư, cơ chế chính sách, mạng lưới KHCN trong mỗi lĩnh vực, trong mỗi thời kỳ. Cơ quan này phải ấn định các mạng lưới các cơ sở R&D và giao nhiệm vụ cụ thể cho từng đơn vị và chịu trách nhiệm về việc cấp kinh phí hoạt động theo nhiệm vụ cũng như đánh giá hoạt động của các cơ sở này theo mỗi giai đoạn. Vì vậy việc tăng cường giao tiếp thường xuyên giữa các cán bộ khoa học và các nhà quản lý cũng như cộng đồng để biết được nhịp thở của cộng đồng KHCN là chìa khóa quan trọng để có những hoạch định chính sách phù hợp trong một xã hội biến đổi nhanh như hiện nay.
3. Nếu khắc phục được tình trang yếu kém của KHCN hiện nay, Đảng và Chính Phủ sẽ có trong tay công cụ toàn năng xây dựng đất nước thịnh vượng, như tâm huyết của các nhà lãnh đạo của chúng ta.
Chúng ta phải làm gì để tháo gỡ các khó khăn cho KHCN: Trên đây chúng tôi đã nêu những khó khăn vướng mắc làm hệ thống KHCN của chúng ta yếu kém. Muốn thay đổi nó, cần rà soát tháo gỡ các khó khăn đã nêu. Xin nhấn mạnh một số điểm.
1. Tổ chức lại hệ thống KHCN theo hướng giảm đầu mối các viện/trung tâm, phòng, các nhóm nghiên cứu đang có. Mỗi một viện/nhóm có nhiệm vụ chiến lược lâu dài dưới sự điều phối của cơ quan quản lý, được cấp đủ kinh phí để theo đuổi nhiệm vụ, không phụ thuộc vào đề tài, dự án bên ngoài. Khi thành lập tổ chức mới hay giao nhiệm vụ mới, việc đầu tiên là phải rà soát nguồn lực tài chính và con người. Nếu không đủ nguồn tài chính hay nhân lực KHCN, nhất quyết không nên thực hiện. Vì nếu thực hiện cũng không thành công mà dẫn đến lãng phí. Việc tái tổ chức lại hệ thống nghiên cứu, giảm đầu mối là việc làm khó khăn vì va chạm với yếu tố con người – trí thức - mà các nhà quản lý thường thiên về hướng né tránh. Vì vậy các nhà quản lý cần phải có quyết tâm cao để thực hiện việc tái tổ chức, tinh giản hệ thống này.
2. Xây dựng các đại học nghiên cứu mạnh – Research University: Đại học là cội nguồn của khoa học công nghệ đỉnh cao. Nơi hàng ngàn giảng viên trình độ cao, hàng ngàn NCS và đội ngũ sinh viên đông đảo là lực lượng lao động chất lượng cao có thể đóng góp thông qua tham gia vào các nhiệm vụ KHCN. Nếu tạo điều kiện cho các giảng viên đại học có đóng góp cụ thể cho kinh tế xã hội thì mỗi trường đại học lại còn là một “trường đời”. Nơi hàng chục vạn sinh viên không chỉ học về kiến thức KHCN mà còn học về thực tế, về “trường đời” mà không một giáo trình nào có thể thay thế được. Tổ chức lại hệ thống giáo dục đại học, gắn nghiên cứu và giảng dạy, biến các trường đại học là nơi sản sinh ra các công nghệ đỉnh cao và là nguồn đào tạo nhân lực chất lượng cao. Nếu coi trường đại học là nơi đào tạo các chuyên gia cho phát triển kinh tế xã hội thì người thầy trước hết phải là tấm gương về phục vụ kinh tế xã hội để sinh viên học theo. Những sinh viên được đào tạo như vậy sẽ không mất 5, 10 thậm chí nhiều hơn để làm quen với thực tế cuộc sống. Vì các lẽ này, cần tăng cường đầu tư cho nghiên cứu ở đại học và đồng thời tăng cường đòi hỏi đóng góp thực tiễn từ đội ngũ giảng viên ở đây. Chỉ có như vậy, chúng ta mới thực sự có hệ thống các đại học nghiên cứu mạnh – Research University. Họ sẽ giúp làm tăng hiệu quả đầu tư cho KHCN rất đáng kể.
3. Thay đổi cơ chế tài chính: Tạo sự chủ động của hệ thống KHCN về kinh phí từ các Bộ đến các cơ sở nghiên cứu và từng nhóm các cán bộ khoa học bằng cách giao kinh phí theo trung hạn và dài hạn. Thay đổi cơ chế cấp phát kinh phí và giải ngân trên cơ sở tham khảo cơ chế này của các nước trên thế giới. Sao cho tài chính và giải ngân không còn là nỗi kinh hoàng của cán bộ KHCN. Để họ có thời gian tập trung toàn tâm toàn ý cho công việc. Tương tự như thế với chế độ sở hữu trí tuệ, quản lý tài sản công.
4. Tăng mức đầu tư cho KHCN một cách hợp lý – phù hợp về trình độ công nghệ và đội ngũ, cũng như tổ chức hệ thống - sao cho đầu tư cho KHCN được hấp thu một cách hiệu quả và chuyển hóa thành sản phẩm mang lại tác dụng cho kinh tế xã hội, doanh nghiệp và sản xuất một cách thuận lợi. Có như vậy mới giữ mức đầu tư cao được lâu dài. Nếu tăng đầu tư một cách bất hợp lý, không tính đến trình độ của đội ngũ đang có, sức hấp thụ của nền kinh tế, các hệ thống quy chế liên quan, có thể dẫn đến tình trạng không đầu tư không hiệu quả như mong đợi, cuối cùng xã hội vẫn quay lưng lại với KHCN. Lúc đó đầu tư lại có tác dụng ngược lại.
5. Cấp kinh phí theo định kỳ 5 năm: Xem xét cấp kinh phí cho các cơ sở R&D theo nhiệm kỳ đủ dài 5 năm để cán bộ khoa học có điều kiện lập kế hoạch. Đánh giá và cấp tiếp cho 5 năm tiếp theo dựa trên kết quả công việc nhiệm kỳ trước. Cấp đúng thời gian, cấp đủ kinh phí để đảm bảo kinh phí sử dụng hiệu quả.
6. Khẩn trưởng tăng lương cho cán bộ khoa học lên mức đủ sống, để thu hút cán bộ chất lượng cao và cán bộ trẻ được đào tạo bài bản.
7. Thay đổi cách đánh giá cán bộ KHCN đầu ngành theo nhiệm kỳ 5 năm. Giao toàn quyền cho cán bộ đầu ngành tuyển chọn các cán bộ giúp việc
8. Bỏ biên chế cả đời. Chỉ dùng hợp đồng dài hạn và hợp đồng theo nhiệm vụ để giữ động lực phấn đấu của cán bộ. (cần tham khảo thêm cách tổ chức, sử dụng cán bộ ở các nước khác).
Kết luận:
Nền khoa học công nghệ của chúng ta ở tình trang rất yếu kém. Xuất phát điểm thấp. Sao chép mô hình KHCN của Liên Xô cũ. Tách rời đào tạo và nghiên cứu. Thiếu kinh phí đầu tư, thiếu kinh nghiệm trong việc điều hành, quản lý hệ thống khoa học, kể cả tổ chức hệ thống, xây dựng kế hoạch và cấp phát kinh phí cũng như phân công trong hệ thống và đào tạo cán bộ cho KHCN. Thiếu nhạc trưởng trong dàn nhạc KHCN. Chúng ta cần phải thay đổi tình trạng này càng sớm càng tốt dựa trên những luận cứ khoa học và kinh nghiệm quốc tế, áp dụng thông minh vào điều kiện cụ thể của Việt Nam.
Khoa học công nghệ phải trở thành công cụ hữu hiệu của các nhà lãnh đạo, nhà quản lý để phát triển đất nước theo định hướng của các nghị quyết của Đảng và Chính Phủ. Cần có sự kết nối thướng xuyên giữa các nhà khoa học và các nhà quản lý để xây dựng các chính sách cơ chế phù hợp và điều chỉnh kịp thời khi có thay đổi.