Hồ sơ Số 9+10+11/2025: AI BIẾT THÂN NHÂN CỦA LIỆT SĨ ĐẶC CÔNG VŨ MINH KHOA QUÊ HẢI PHÒNG VÀ TRẦN VĂN RIỂU QUÊ THÁI BÌNH?

Hồ sơ với các mã số F034606770133 và F034606770114, bị quân đội Mỹ thu giữ vào ngày 30/1/1970, tại tỉnh Phước Tuy (nay thuộc Bà Rịa– Vũng Tàu). Các tài liệu này được thu hồi từ thi thể của chiến sĩ QĐNDVN. Nguồn gốc của tài liệu xuất phát từ Trung đoàn Đặc công Rừng Sác, một đơn vị được huấn luyện đặc biệt, thuộc Phân khu 4, Quân khu 7, nổi tiếng với các chiến dịch phá hoại và tập kích đổ bộ trong các khu rừng ngập mặn phía đông nam Sài Gòn.

Vị trí thu giữ, tọa độ 48PYS211708 [10.58491°B, 107.02074°Đ] - nằm gần các tuyến xâm nhập đường thủy giữa Long Tân, Nhà Bè và Đồng Nai, cho thấy nhiều khả năng các tài liệu này được lấy từ một sở chỉ huy đang hoạt động hoặc mới rút đi.

dt1ab-1749283289.jpg
 

Hồ sơ mã số F034606770133 gồm một quyển sổ tay dài 72 trang, được cho là của ông Vũ Minh Khoa, thành viên của Đội 2 (Đại đội 2), trong đó có các báo cáo sau trận đánh, biên bản sinh hoạt chính trị, dữ liệu hậu cần và bản đồ. Đáng chú ý, tài liệu có đề cập đến nhiều cuộc tấn công trong Chiến dịch Xuân 1968, nhắm vào các mục tiêu như cảng Nhà Bè, Cát Lái, Tòa Đại sứ Hoa Kỳ và Dinh Độc Lập. Các ghi chép này cho thấy mức độ phối hợp cao và hỏa lực mạnh, sử dụng đạn H-12 (107mm), B-41, đạn AK và thuốc nổ TNT - hàm ý những trận đánh có cường độ cao, có thể gây thương vong lớn. Việc nhắc đến các đồng chí Thái và Định, thuộc Đội 8, cũng giúp xác định nhân sự cụ thể có thể chưa được ghi nhận đầy đủ.

dt2dh2a-1749283378.jpg
 

Hồ sơ mã số F034606770114, là một tập tài liệu sáu trang gồm Quyết định bổ nhiệm, Bằng khen và hồ sơ phục vụ của cựu chiến binh Vũ Minh Khoa, người đến giữa năm 1969 đã được thăng chức Chính trị viên phó, kiêm Trung đội trưởng của Đội 5, Đoàn 10 (nhiều khả năng trực thuộc Trung đoàn Đặc công Rừng Sác).

Các Quyết định do các chỉ huy Nguyễn Hoàng Sơn và Lê Bá Ước ký xác nhận cấp bậc, chức vụ và các danh hiệu mà ông Khoa được trao, bao gồm danh hiệu "Chiến sĩ Quyết thắng hạng Nhất" và năm lần được tuyên dương "Chiến sĩ Dũng cảm tuyến thông tin" trong giai đoạn 1968 – 1969. Quê quán của ông Khoa được ghi rõ là thôn Minh Tân, huyện Kiến Thụy, TP. Hải Phòng.

dt3dh3g-1749283430.jpg
 

dt4ag-1749283484.jpg

Những ảnh đính kèm: Một số trang Di bút và tài liệu có trong các Hồ sơ chứng tích chiến tranh nêu trên. Ảnh do tác giả cung cấp.

 

CÓ AI BIẾT THÂN NHÂN, ĐỒNG ĐỘI CỦA CCB TRẦN VĂN RIỂU, QUÊ THÁI BÌNH?

Hồ sơ mã số F034604500542 là 2 cuốn sổ tay của cựu chiến binh Trần Văn Riểu (cũng có thể là Riêu hoặc Riễu), bị quân đội Mỹ thu giữ tại thung lũng Suối Cả, tỉnh Bình Định, ngày 27/10/1968. Ông Riểu sinh 1942 (có thể là 1945) tại làng Đồng Nhân, xã Thái Thành, huyện Thái Ninh, tỉnh Thái Bình. Vợ là bà Lê Thị Dâu, sinh 1945. Họ có hai người con: Trần Văn Khảm và Trần Thị Rơi.

Ông Trần Văn Riểu gia nhập QĐNDVN vào tháng 2/1961, xuất ngũ tháng 4/1963. Tháng 3/1966, ông tái ngũ và biên chế vào đơn vị D9, E209, F312. Sau đó ông được điều chuyển đến Trung đoàn 568 ở tỉnh Hà Bắc và hành quân vào Nam ngày 15/9/1967. Ông đến điểm tập kết của Sư đoàn 3 tại Quảng Ngãi, vào ngày 31/12/1967 và đến Quân khu 5 vào ngày 15/1/1968, trước khi cùng đơn vị đến Bình Định. CCB Trần Văn Riểu từng giữ chức Phó Đại đội trưởng của Đại đội 6, Tiểu đoàn 6, Trung đoàn Quyết Thắng, Sư đoàn 3.

Hai cuốn sổ tay của ông Trần Văn Riểu chứa các mục ghi chép viết tay từ ngày 28/12/1965 đến ngày 18/9/1968. Nội dung bao gồm tiểu sử cá nhân, các nhiệm vụ quân sự, báo cáo quân số đơn vị, danh sách cán bộ chính trị, hướng dẫn huấn luyện và kiểm kê vũ khí. Sổ tay cũng ghi các quy ước sử dụng pháo hiệu trong phối hợp tác chiến.

Tài liệu nêu trên đã cung cấp sơ đồ tổ chức đầy đủ của đơn vị C63, tính đến ngày 12/9/1968. Đơn vị có 94 quân nhân, trong đó có 26 đảng viên và 63 đoàn viên thanh niên. Các phân đội bao gồm: Ban chỉ huy đại đội (C), Trung đội 1 (B1), Trung đội 2 (B2), và Trung đội 3 (B3). Trang bị vũ khí của đơn vị bao gồm: 36 khẩu AK, 6 súng máy nhẹ RPD, 9 súng CKC, 1 khẩu cối (không rõ loại), với 60 viên đạn và 3 súng B40, với 12 quả đạn.

Các cán bộ chủ chốt bao gồm: Trần Văn Riểu: Phó Đại đội trưởng; Nguyễn Văn Sét: Đại đội trưởng, kiêm Tiểu đội trưởng Tiểu đội 1, sinh 10/1943 tại Quảng Bình; Thiếu úy Nguyễn Văn Định: Chính trị viên, sinh 1938, quê xã Yên Lộc, tỉnh Vĩnh Phúc; Thiếu úy Trần Đình Đệ (Đê): Chính trị viên phó, sinh 1943, quê Thanh Miện, tỉnh Hải Dương.

Một cuốn sổ tay của Trần Văn Riểu cho biết lịch sử chiến đấu của ông và đơn vị như sau: Mục ghi ngày 19/3/1968 cho biết Tiểu đoàn 6 là đơn vị được thành lập từ tháng 5/1950 trong thời kỳ Kháng chiến chống Pháp, đã từng tiêu diệt một khẩu đội pháo Pháp và sau Hiệp định Genève 1954 được điều về Hà Tĩnh. Năm 1961, đơn vị này được cử sang Lào, trở về miền Bắc năm 1962 và vào Nam năm 1965, thể hiện bề dày tác chiến đa chiến trường.

Một mục khác, ông Trần Văn Riểu ghi ngày 18/9/1968 mô tả quy ước sử dụng pháo hiệu trong đơn vị ông thời đó như sau:

- Hai quả pháo sáng xanh: Rút toàn bộ Nông Trường (có thể là Sư đoàn 3 QĐNDVN?);

- Một pháo đỏ và một pháo xanh: Rút Xóm 6 (có thể là Tiểu đoàn 6?);

- Một pháo xanh và một pháo trắng: Rút Xóm 4 (có thể là Tiểu đoàn 4?).

Hà Nội, 7/6/2025

TTNL