Khẳng định vị thế Việt Nam trên bản đồ đổi mới sáng tạo toàn cầu

Báo cáo Chỉ số Đổi mới sáng tạo toàn cầu (Global Innovation Index – GII) 2025 do Tổ chức Sở hữu trí tuệ thế giới (WIPO) công bố ngày 16/9/2025 đã một lần nữa khẳng định vị thế ngày càng vững chắc của Việt Nam trên bản đồ đổi mới sáng tạo toàn cầu.

Với việc duy trì thứ hạng 44/139 quốc gia, nền kinh tế trong năm 2025, Việt Nam tiếp tục đứng thứ 2 trong nhóm nước thu nhập trung bình thấp, chỉ sau Ấn Độ. Thành tích này không chỉ phản ánh sự tiến bộ của Việt Nam trong lĩnh vực đổi mới sáng tạo, mà còn là minh chứng cho tầm nhìn chiến lược và sự chỉ đạo nhất quán, quyết liệt của Đảng và Chính phủ trong định hướng phát triển đất nước dựa trên khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo.

dt1a-dmst1-1759119453.jpg

Tổng Giám đốc WIPO Daren Tang phát biểu tại Hội thảo giới thiệu Chỉ số Đổi mới sáng tạo toàn cầu (GII) 2025 và kết quả của Việt Nam- Ảnh: VGP/TG

 

Đổi mới sáng tạo gắn với bản sắc và hiệu quả

Báo cáo GII 2025 cho thấy Việt Nam:

Duy trì vị trí thứ 44/139 toàn cầu, thuộc nhóm 50 quốc gia có hệ sinh thái đổi mới sáng tạo hàng đầu.

Giữ vững vị trí thứ 2 trong nhóm quốc gia thu nhập trung bình thấp, chỉ sau Ấn Độ.

Dẫn đầu thế giới về chỉ số xuất khẩu hàng hóa sáng tạo, một minh chứng cho năng lực chuyển đổi mô hình từ gia công sang sản phẩm có giá trị sáng tạo.

Tăng 3 bậc về chỉ số đầu vào ĐMST, từ hạng 53 lên hạng 50, nhờ chú trọng thể chế, R&D, nhân lực và hạ tầng số.

Giữ thứ hạng cao về đầu ra đổi mới sáng tạo (hạng 37), phản ánh hiệu quả trong thương mại hóa, công nghệ và sáng chế.

Đáng chú ý, Việt Nam là 1 trong 9 quốc gia thu nhập trung bình cải thiện nhanh nhất về GII kể từ 2013 và 1 trong 2 quốc gia đạt hiệu suất ĐMST vượt mức phát triển liên tục suốt 15 năm, bên cạnh Ấn Độ

 Khung chỉ số quốc gia – Cụ thể hóa định hướng chiến lược

Sau khi GII 2025 được công bố, ngày 19/9/2025, Bộ Khoa học và Công nghệ đã ban hành Khung chỉ số phục vụ theo dõi, đánh giá tiềm lực, trình độ khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo quốc gia theo Quyết định số 2796/QĐ-BKHCN. Khung chỉ số gồm:

Khung đánh giá tiềm lực, lựa chọn 35/78 chỉ số từ GII (gồm 19 đầu vào và 16 đầu ra).

Khung đánh giá trình độ, lựa chọn 16/27 lĩnh vực khoa học – công nghệ từ tổ chức SCImago.

Các chỉ số bao gồm: nguồn nhân lực khoa học, chi R&D, năng lực đại học, hoạt động khởi nghiệp – đổi mới sáng tạo, đầu tư mạo hiểm, số lượng bằng sáng chế, mức độ hợp tác quốc tế, tác động xã hội của nghiên cứu khoa học, vai trò của nữ giới trong nghiên cứu, v.v.

Đây là công cụ quan trọng để đo lường, điều chỉnh và đánh giá chính sách, phù hợp với Nghị quyết số 57-NQ/TW (năm 2024) và Nghị quyết số 71/NQ-CP (năm 2025), tạo nền tảng để hiện thực hóa mục tiêu phát triển quốc gia thu nhập cao vào năm 2045.

Những thách thức và định hướng phát triển

Mặc dù đạt nhiều kết quả tích cực, nhưng Việt Nam vẫn đối diện với một số vấn đề:

Cơ sở hạ tầng khoa học – công nghệ còn hạn chế, đặc biệt là trong các viện nghiên cứu và trường đại học.

Tỷ lệ chi cho R&D (% GDP) còn thấp, đặc biệt trong khối doanh nghiệp tư nhân.

Thiếu hụt nhân lực chất lượng cao trong lĩnh vực STEM, kỹ thuật số và công nghệ chiến lược.

Khả năng thương mại hóa tài sản trí tuệ còn hạn chế, số lượng bằng sáng chế quốc tế còn khiêm tốn.

Sự phụ thuộc vào khu vực FDI trong các chỉ số ĐMST, đặc biệt là trong xuất khẩu hàng hóa sáng tạo.

Để tiếp tục nâng cao vị thế ĐMST của Việt Nam trên toàn cầu, cần tập trung vào các nhóm giải pháp:

Tăng đầu tư công và tư cho nghiên cứu và phát triển, đặc biệt khuyến khích R&D trong doanh nghiệp tư nhân.

Phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao trong STEM, thiết kế, công nghệ cao và công nghiệp sáng tạo.

Nâng cao hiệu quả của các trung tâm nghiên cứu – đào tạo, thúc đẩy hợp tác viện – trường – doanh nghiệp.

Thúc đẩy thị trường khoa học – công nghệ, tăng khả năng thương mại hóa sáng chế, phát triển tài sản trí tuệ nội địa.

Cải cách pháp luật và thực thi quyền sở hữu trí tuệ, rút ngắn quy trình xác lập, nâng cao tính bảo hộ sáng chế.

Phát triển thương hiệu Việt Nam, hướng tới giá trị bản địa, thiết kế sáng tạo, công nghệ bản quyền.

Đưa đổi mới sáng tạo vào các lĩnh vực nông nghiệp – nông thôn, nhằm nâng cao năng suất, hiệu quả và chất lượng sản phẩm nông nghiệp Việt Nam.

 Thế hệ trẻ từ khởi nghiệp đến kiến tạo tương lai

Các hoạt động đào tạo, truyền cảm hứng đổi mới sáng tạo cho thanh niên, tiêu biểu như chương trình tập huấn khởi nghiệp tại Huế tháng 9/2025, cho thấy vai trò then chốt của giới trẻ trong hệ sinh thái ĐMST quốc gia. Việc khai thác các yếu tố di sản, bản sắc văn hóa địa phương kết hợp với công nghệ số sẽ là hướng đi mới mẻ để phát triển mô hình khởi nghiệp sáng tạo đặc thù tại nông thôn, địa phương – nơi chiếm phần lớn không gian phát triển quốc gia.

Việt Nam đang bước vào giai đoạn phát triển mới với mục tiêu trở thành nước công nghiệp phát triển vào năm 2045. Để đạt được điều đó, việc tiếp tục nâng cao vị thế trong GII không chỉ là mục tiêu số học mà là chỉ dấu cho hiệu quả của hệ sinh thái đổi mới sáng tạo. Thành công trong GII 2025 là bước khẳng định quan trọng, nhưng duy trì và nâng cao thứ hạng sẽ đòi hỏi những nỗ lực đồng bộ, liên tục và có chiều sâu.

Việt Nam cần tận dụng động lực đổi mới sáng tạo để nâng cao năng suất lao động, phát triển sản phẩm mang bản sắc, tăng giá trị gia tăng và hội nhập bền vững vào chuỗi giá trị toàn cầu. Trong đó, nông nghiệp – nông thôn trở thành trụ đỡ để công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.

V.X.B