Lục tỉnh Nam Kỳ khói lửa (Tiểu thuyết Lịch sử) - Kỳ 21

Trân trọng giới thiệu tiếp với bạn đọc Tiểu thuyết lịch sử “Lục tỉnh Nam Kỳ khói lửa” của PGS TS Cao Văn Liên do NXB Hồng Đức ấn hành năm 2024.

Kỳ 21.

Nguyễn Nhựt Chi nói:

-Theo tại hạ nên dùng khoảng 600 quân chia làm ba cánh, cánh thứ nhất bí mật dùng ghe đi men theo bờ sông Cần Giuộc, lên bờ chui qua hàng rào bất ngờ đánh phía sau đồn, cánh này do Đốc binh Huy chỉ huy, cánh thứ 2 cũng 200 người đánh mặt trước, bí mật tiếp cận giết lính gác, theo cổng chính đánh vào đồn. Cánh này do tại hạ chỉ huy. Cánh thứ 3 cũng 200 nghĩa quân bao vây vòng ngoài diệt những tên Pháp thoát ra ngoài, cũng là để đề phòng quân Pháp từ bên ngoài bao vây chúng ta. Thời gian tấn công phải bí mật, khoảng 2-3 giờ sáng lúc mà quân Pháp còn ngủ rất say như chết.

Bùi Quang Diệu nói:

-Cách này hay lắm, đúng là lúc 2-3 giờ sáng là lúc mà quân Pháp sống nhưng đã chết và ta cho chúng chết luôn. Thời gian ta hành động là vào đêm rằm tháng 11 năm Tân Dậu. Tướng quân thấy thế nào?

Nguyễn Nhựt Chi phân vân:

-Rằm thì trăng hơi sáng, quân ta dễ bị lộ. Nhưng thôi được, cái chính là phải đánh bất ngờ.

Chuẩn bị xong đêm đó, ba cánh quân xuất phát lúc 2 giờ sáng, cánh quân của Bùi Quang Diệu chỉ huy đi thuyền nhỏ, men theo bờ sông Cần Giuộc um tùm đổ bộ lên bờ, 200 nghĩa quân bí mật bò lại gần cửa đồn, hai nghĩa quân bò gần bóp gác bóp cổ hai tên lính gác mã tà đang ngủ ngồi say sưa và bắn lên trời hai mồi lửa sáng. Trong khi đó cánh quân trước đồn phía chợ Trương Bình khi thấy mồi lửa tín hiệu đã áp sát đồn, Nguyễn Nhựt Chi cho giết chết hai tên lính gác và phá cửa đồn xông vào chém giết. Lính Pháp kinh hoàng thức giấc còn ngơ ngác đều bị chém chết đủ kiểu, đứa đứt đầu, đứa đứt cổ, đứa bị đâm. Khi đó trong đồn mới vang lên tiếng súng của quân Pháp chống cự. Tên đồn trưởng trung úy Dumon bị đâm gục xuống khi chạy ra khỏi phòng. Khắp đồn máu chảy chan hòa, thây đổ ngổn ngang. Rạng sáng chiến hạm Pháp trên sông Cần Giuộc mới bắn đại bác vào đồn chi viện. Đồn Cần Giuộc tan nát. Bây giờ nghĩa quân mới bị thương vong 15 người do trúng đại bác. Bùi Quang Diệu ra lệnh cõng theo những người bị thương và rút lui. Pháp bị tiêu diệt 200 tên. Đây là trận đánh làm nức lòng nghĩa quân miền Đông và làm quân Pháp kinh hoàng. Tuần Phủ Gia Định Đỗ Quang và Trương Công Định nói với Đồ Chiểu:

-Ngày mai Đốc binh Bùi Quang Diệu tổ chức mai táng cho 15 nghĩa quân đã hy sinh trong trận đánh đồn Cần Giuộc, tiên sinh hãy viết một bài văn tế tế vong linh của các liệt sĩ đã hy sinh vì nước.

Nguyễn Đình Chiểu nói:

-Đa tạ chủ tướng và ngài Tuần phủ đã tín nhiệm giao việc thiêng liêng này, tại hạ đồng ý, đa tạ, đa tạ.

-Đa tạ tiên sinh.

          Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc

Hỡi ơi !
Súng giặc đất rền;
Lòng dân trời tỏ.
Mười năm công vỡ ruộng, chưa ắt còn danh nổi như phao;
Một trận nghĩa đánh Tây, tuy là mất tiếng vang như mõ.

Nhớ linh xưa
Cui cút làm ăn;
Toan lo nghèo khó,
Chưa quen cung ngựa, đâu tới trường nhung;
Chỉ biết ruộng trâu, ở trong làng bộ.

Việc cuốc, việc cày, việc bừa, việc cấy, tay vốn quen làm;
Tập khiên, tập mác, tập giáo, tập cờ, mắt chưa từng ngó.

Tiếng phong hạc phập phồng hơn mười tháng, trông tin quan như trời hạn trông mưa;
Mùi tinh chiên vấy vá đã ba năm, ghét thói mọi như nhà nông ghét cỏ.

Bữa thấy bòng bong che trắng lốp, muốn tới ăn gan;
Ngày xem ống khói chạy đen sì, muốn ra cắn cổ.

Một mối xa thư đồ sộ, há để ai chém rắn đuổi hươu;
Hai vầng nhật nguyệt chói lòa, đâu dung lũ treo dê bán chó.

Nào đợi ai đòi ai bắt, phen này xin ra sức đoạn kình;
Chẳng thèm trốn ngược trốn xuôi, chuyến này nguyện ra tay bộ hổ.

        Khá thương thay!

Vốn chẳng phải quân cơ quân vệ, theo dòng ở lính diễn binh;
Chẳng qua là dân ấp dân lân, mến nghĩa làm quân chiêu mộ

Mười tám ban võ ghệ, nào đợi tập rèn;
Chín chục trận binh thư, không chờ bày bố.

Ngoài cật có một manh áo vải, nào đợi mang bao tấu, bầu ngòi,
Trong tay cầm một ngọn tầm vông, chỉ nài sắm dao tu, nón gõ.

Hỏa mai đánh bằng rơm con cúi, cũng đốt xong nhà dạy đạo kia;
Gươm đeo dùng một ngọn dao phay, cũng chém rớt đầu quan hai nọ.

Chi nhọc quan quản gióng trống kỳ trống giục, đạp rào lướt tới, coi giặc cũng như không;
Nào sợ thằng Tây bắn đạn nhỏ, đạn to, xô cửa xông vào, liều mình như chẳng có.

Kẻ đâm ngang, người chém ngược, làm cho mã tà, ma ní hồn kinh;
Bọn hè trước, lũ ó sau, trối kệ tàu thiếc, tàu đồng súng nổ.

        Ôi!

Những lăm lòng nghĩa lâu dùng, đâu biết xác phàm vội bỏ.

Một giấc sa trường rằng chữ hạnh, nào hay da ngựa bọc thây;
Trăm năm âm phủ ấy chữ quy, xá đợi gươm hùm treo mộ.

Đoái sông Cần Giuộc, cỏ cây mấy dặm sầu giăng;
Nhìn chợ Trường Bình, già trẻ hai hàng lụy nhỏ.

Chẳng phải án cướp, án gian đày tới, mà vì binh đánh giặc cho cam tâm;
Vốn không giữ thành, giữ lũy bỏ đi, mà hiệu lực theo quân cho đáng số.

        Nhưng nghĩ rằng:

Tấc đất ngọn rau ơn chúa, tài bồi cho nước nhà ta;
Bát cơm manh áo ở đời, mắc mớ chi ông cha nó.

Vì ai khiến quan quân khó nhọc, ăn tuyết nằm sương;
Vì ai xui hào lũy tan tành, xiêu mưa ngã gió.

Sống làm chi theo quân tả đạo, quẳng vùa hương, xô bàn độc, thấy lại thêm buồn;
Sống làm chi ở lính mã tà, chia rượu ngọt, gặm bánh mì, nghe càng thêm hổ.

Thà thác mà đặng câu địch khái, về theo tổ phụ cũng vinh;
Còn hơn mà chịu chữ đầu Tây, ở với man di rất khổ.

        Ôi thôi thôi!

Chùa Tông Thạnh năm canh ưng đóng lạnh, tấm lòng son gửi lại bóng trăng rằm;
Đồn Lang Sa một khắc đặng trả hờn, tủi phận bạc trôi theo dòng nước đổ.

Đau đớn bấy! Mẹ già ngồi khóc trẻ, ngọn đèn khuya leo lét trong lều;
Não nùng thay! Vợ yếu chạy tìm chồng, cơn bóng xế dật dờ trước ngõ.

Ôi!

Một trận khói tan,
Nghìn năm tiết rỡ.

Binh tướng nó hãy đóng sông Bến Nghé, ai làm nên bốn phía mây đen;
Ông cha ta còn ở đất Đồng Nai, ai cứu đặng một phường con đỏ.

Thác mà trả nước non rồi nợ, danh thơm đồn sáu tỉnh chúng đều khen;
Thác mà ưng đình miếu để thờ, tiếng ngay trải muôn đời ai cũng mộ.

Sống đánh giặc, thác cũng đánh giặc, linh hồn theo giúp cơ binh, muôn kiếp nguyện được trả thù kia;
Sống thờ vua, thác cũng thờ vua, lời dụ dạy đã rành rành, một chữ ấm đủ đền công đức đó.
Nước mắt anh hùng lau chẳng ráo, thương vì hai chữ thiên dân;
Cây hương nghĩa sĩ thắp thêm thơm, cám bởi một câu vương thổ.

Hỡi ôi,thương thay!
Có linh xin hưởng.

(Còn nữa)

CVL