Bà Trần Thị Như Mân sinh năm 1907, quê ở làng Minh Hương nay thuộc xã Minh Thạnh, huyện Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên Huế trong một gia đình quan lại. Bà là cháu nội của cụ Trần Tiễn Thành, Thượng thư bộ Binh triều Tự Đức, phụ chính đại thần sau khi vua Tự Đức qua đời. Bà là con của Giải nguyên Trần Tiễn Hối, Tổng đốc Nghệ An.
Năm 1925, bà đậu cao đẳng tiểu học, được bổ làm giáo viên trường nữ trung học Đồng Khánh. Năm đó, cụ Phan Bội Châu bị Pháp bắt ở Thượng Hải rồi bị dẫn độ về nước kết án tử hình. Bà Như Mân và một số bạn đồng nghiệp cùng chí hướng đã gửi một bức điện cho Toàn quyền Đông Dương Varenne xin ân xá cho cụ Phan Bội Châu, chính tay bà là người gửi điện ở nhà dây thép. Hành động này bị Sở Mật thám Pháp ghi vào sổ đen. Bà cùng bà Đạm Phương là mẹ của nhà báo Nguyễn Khoa Văn (Hải Triều) lập Nữ công học Hội là tổ chức xã hội phụ nữ đầu tiên của nước ta ở Huế. Bà Đạm Phương làm hội trưởng còn bà Như Mân làm thư ký. Nữ công học Hội thường được cụ Phan Bội Châu ủng hộ và đến nói chuyện về phong trào phụ nữ trên thế giới. Cuộc họp thành lập hội Nữ công đánh dấu lần đầu tiên bà Như Mân gặp ông Đào Duy Anh khi ông đang trên đường từ Quảng Bình vào Sài Gòn.
Hội Nữ công dạy công việc gia chánh và dạy nghề, giúp cho phụ nữ tự lập để tham gia công việc xã hội, đấu tranh cho quyền lợi phụ nữ. Bà Như Mân dạy chị em nấu ăn và viết sách về kỹ thuật nấu ăn.
Cuối năm 1926, cụ Phan Chu Trinh mất, học sinh ở Huế tổ chức truy điệu và bãi khóa, bà bị nghi là cầm đầu nữ sinh Đồng Khánh nên bị cách chức. Từ đấy bà tìm cách tự lập và hoạt động cho Hội. Thời gian này, do sự tác động của phong trào yêu nước, một làn sóng chấn hưng công nghệ kêu gọi mọi người dùng hàng nội lan rộng ra cả nước. Theo lời khuyên của bà Đạm Phương, bà Như Mân, bà Nguyễn Thị Giáo (sau này là vợ của cố Tổng Bí thư Hà Huy Tập) cùng một số người ra Bắc học dệt vải. Một thời gian sau, cả nhóm của bà nhận thấy việc học nghề dệt không được thuận lợi nên lại trở về Huế.
Về quê, bà tiếp tục hoạt động cho Hội Nữ công. Trong thời gian này, bà được ông Nguyễn Khoa Văn kết nạp vào Đảng Tân Việt. Bà cùng với một số chị em lập cửa hàng Vân Hòa để sinh sống và làm nơi liên lạc của Phụ nữ đoàn của Đảng Tân Việt. Bà đã cùng chị em đi về phát triển đoàn ở nông thôn.
Năm 1929, bà xuất bản tờ báo Phụ nữ tùng san là một trong 2 tờ báo phụ nữ đầu tiên ở nước ta để tuyên truyền cho việc giải phóng phụ nữ, đấu tranh cho nữ quyền. Trong thời gian này, bà thường gặp ông Đào Duy Anh trong hoạt động của Đảng và cả 2 cùng bị Pháp bắt.
Sau khi ra tù, bà đã kết hôn với ông Đào Duy Anh. Bà phát triển việc buôn bán ở cửa hàng Vân Hòa để giúp ông Đào Duy Anh có thời gian làm việc. Bà còn làm các mỹ phẩm như phấn xoa mặt phụ nữ bằng bột gạo, phấn hồng, dầu chải tóc. Đặc biệt, dầu cao Linh Bửu của bà sáng chế nổi tiếng một thời ở Huế. Tất cả công việc này bà đều tự học lấy trong cách sách đặt mua ở Pháp về.
Chính bà đã gợi ý cho ông Đào Duy Anh làm cuốn Hán Việt từ điển, giúp ông tập hợp các từ Hán Việt trên sách báo, ghi và sắp xếp các phích để xây dựng các mục từ. Bà là người lo việc xuất bản cuốn từ điển này. Tiếp đó bà tổ chức việc xây dựng Pháp Việt từ điển. Nhờ có hiệu sách, bà có thể đặt mua các loại từ điển khác nhau trên thế giới để làm tài liệu tham khảo. Hiệu Vân Hòa trước còn bán sách kiêm bán thuốc, dần dần chuyển sang chuyên bán sách và văn phòng phẩm. Chính nhờ có hiệu sách này nên bà đã xây dựng cho ông Đào Duy Anh một thư viện lớn với đầy đủ sách cần cho việc nghiên cứu.
Là một giáo viên mà không được dạy học, bà Như Mân không thể từ bỏ công việc yêu thích ấy. Bà nghĩ đến việc mở một trường tư thục, đó là trường Nữ giáo dành cho học sinh nữ các tỉnh miền Trung không vào được trường Đồng Khánh, những gia đình muốn cho con gái đi học mà không có điều kiện gửi đi học Hà Nội hay Sài Gòn.
Do bố mất sớm nên ông Đào Duy Anh là con cả phải nuôi dưỡng các em ăn học. Các anh, em của ông đều thoát ly đi hoạt động cách mạng, bị bắt và tù đầy nên bà Như Mân lại đón các cháu về nhà mình nuôi. Ngoài ra, các bạn bè của ông bà gửi con về Huế học cũng đều đến ở nhà ông bà. Tất cả mọi việc trong nhà đều do một tay bà sắp đặt, quản lý.
Sau Cách mạng tháng Tám, ông Nguyễn Chí Thanh biết tiếng bà qua các hoạt động xã hội uy tín với phụ nữ miền Trung nên đến mời bà ra làm hội trưởng Hội Phụ nữ Thừa Thiên Huế. Từ đấy, bà trở lại tham gia hoạt động xã hội.
Trong thời kỳ chiến tranh chống Pháp, gia đình ông Đào Duy Anh tản cư về Thanh Hóa. Lúc này bà được bầu làm Phó Chủ tịch Hội LHPN Khu 4. Năm 1950, bà được bầu vào Ban Chấp hành Trung ương Hội LHPNVN và được yêu cầu ra Việt Bắc. Hội giao cho bà tổ chức một trại nhi đồng để nuôi con cán bộ đi công tác trong kháng chiến. Trại đóng trên ngọn núi Khe Thao giữa Tuyên Quang và Bắc Kạn. Với kinh nghiệm có sẵn về nuôi dạy trẻ con, bà đã làm tốt công việc này trong điều kiện thiếu thốn của chiến tranh.
Sau năm 1954, về Hà Nội, bà tiếp tục phụ trách trại nhi đồng miền Bắc của Hội Phụ nữ. Năm 1965, do sức khỏe giảm sút nhiều nên bà xin về hưu. Từ đấy, bà có điều kiện toàn tâm toàn ý giúp ông Đào Duy Anh trong công việc nghiên cứu. Bà qua đời vào năm 1992.