Từ hạt gạo nghĩa tình đến giống lúa Việt trúng mùa trên đồng ruộng Triều Tiên

Nhận lời mời của Tổng Bí thư Đảng Lao động Triều Tiên, Chủ tịch Quốc vụ nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên Kim Jong Un, Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam Tô Lâm sẽ thăm cấp Nhà nước tới Triều Tiên và dự Lễ kỷ niệm 80 năm thành lập Đảng Lao động Triều Tiên từ ngày 9-11/10/2025.

Quan hệ giữa Việt Nam và Cộng hoà Dân chủ Nhân dân Triều Tiên là một trong những mối quan hệ song phương hiếm có trong lịch sử hiện đại, được hun đúc qua nhiều biến cố lịch sử và được bồi đắp không chỉ bằng lợi ích chiến lược mà còn bởi máu, mồ hôi và những giá trị nhân văn sâu sắc,  thể hiện sức mạnh của đạo lý và giá trị của lòng thủy chung giữa các dân tộc.

dt1att1a-1760084287.webp

Tổng Bí thư Tô Lâm và Tổng Bí thư, Chủ tịch Quốc vụ Triều Tiên Kim Jong-un trong cuộc hội đàm ngày 9/10/205. Ảnh: TTXVN

 

Trong giai đoạn khốc liệt của cuộc kháng chiến chống Mỹ, khi miền Bắc Việt Nam phải đối mặt với những trận ném bom rải thảm ác liệt, lời kêu gọi quốc tế của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhận được sự hưởng ứng đặc biệt từ Chủ tịch Kim Nhật Thành. Gần 200 phi công và sĩ quan Triều Tiên đã được cử sang sát cánh chiến đấu trong đội hình không quân Việt Nam. Họ không chỉ là chuyên gia, mà là những người lính thực thụ, mặc quân phục Việt Nam, lái máy bay MiG, chiến đấu và hy sinh bên cạnh đồng đội Việt.

Trong số đó, 14 phi công Triều Tiên đã vĩnh viễn nằm lại trên đất Việt. Suốt hơn nửa thế kỷ, thân phận của họ được giữ kín, phần mộ được gìn giữ trân trọng trong nghĩa trang liệt sĩ tại Bắc Giang, nay là Bắc Ninh. Đến năm 2019, trong một buổi lễ trang trọng, hài cốt của họ được hồi hương, nhưng đã kịp để lại một dấu ấn bất biến: món nợ máu – thiêng liêng và không thể lãng quên.

Chính từ cội nguồn ấy, mối quan hệ Việt – Triều vượt qua khuôn khổ của những liên kết thông thường, trở thành một dạng quan hệ đặc biệt, mang tính chất đạo lý và sống còn.

Khi Triều Tiên rơi vào khủng hoảng lương thực nghiêm trọng vào những năm 1990 do thiên tai và sự tan rã của hệ thống viện trợ Đông Âu, Việt Nam – khi ấy vẫn đang chật vật vượt qua khó khăn sau chiến tranh - đã chia sẻ từ phần thiếu thốn của mình.

dt2attb-1760084396.jpg

Ngày 29/9/2025, Thứ trưởng Hoàng Trungbên phải) gặp và làm việc với ông Ri Sung Guk, Đại sứ Triều Tiên tại Việt Nam, nhằm thảo luận các cơ hội hợp tác trong lĩnh vực nông nghiệp. Ảnh: Internet.

 

Năm 1995, tàu chở 100 tấn gạo đầu tiên rời cảng Hải Phòng tới Triều Tiên. Hai năm sau, con số tăng lên 13.000 tấn. Đến năm 2012, tổng số gạo viện trợ đã gần 40.000 tấn. Không phải viện trợ có điều kiện, không đòi hỏi nhượng bộ chính trị, cũng không được quảng bá rầm rộ, hành động ấy thuần tuý là biểu hiện của tình người, của một quốc gia biết chia sẻ.

Tại cảng Nampo, hàng vạn người dân Triều Tiên đã xúc động khi thấy những bao gạo in dòng chữ “Việt Nam”. Truyền thông Triều Tiên khi ấy phát đi thông điệp: “Chúng ta không bị thế giới ruồng bỏ, vì vẫn còn Việt Nam”. Đó là lời khẳng định mạnh mẽ rằng: Việt Nam không chỉ là một quốc gia đối tác, mà là người bạn thủy chung son sắt.

Sau giai đoạn viện trợ đó, Việt Nam tiếp tục triển khai chính sách hỗ trợ dài hạn bằng cách chuyển giao kỹ thuật nông nghiệp và giống cây trồng. Các chuyên gia nông nghiệp Việt Nam – phần lớn xuất thân từ nông thôn, dày dạn kinh nghiệm cải tạo đất, xử lý đất phèn, đất chua – đã trực tiếp sang Triều Tiên để hướng dẫn từng kỹ thuật cụ thể: từ xác định độ PH của đất, làm thủy lợi, đến phương pháp bón phân hữu cơ.

Đặc biệt, giống lúa OM của Việt Nam - chịu lạnh, chịu hạn, thời gian sinh trưởng ngắn - đã phát huy hiệu quả khi đưa vào trồng thử nghiệm tại Triều Tiên, cho năng suất cao, cải thiện tình hình lương thực rõ rệt. Ngoài ra, các giống cây ăn củ như sắn, cây ăn quả như thanh long, dưa hấu cũng được thử nghiệm thành công, nhân ra diện rộng, mở ra tư duy đa dạng hóa nông sản.

Hành động này không chỉ mang ý nghĩa kinh tế, mà là biểu hiện rõ nét của một chiến lược ngoại giao mềm, dựa trên sự sẻ chia tri thức và định hướng phát triển bền vững, thay vì viện trợ mang tính chất ngắn hạn.

Chiến lược đối ngoại của Việt Nam ngày càng được quốc tế ghi nhận như một điển hình của “ngoại giao cây tre”: Mềm dẻo nhưng kiên định, uyển chuyển nhưng bền bỉ. Trong quan hệ với Triều Tiên, tinh thần ấy càng thể hiện rõ nét.

Khi thế giới áp dụng sức ép, trừng phạt, cô lập, Việt Nam chọn một con đường khác: hợp tác không điều kiện, không mặc cả, không gây sức ép, mà tập trung vào nền tảng đạo lý và sự thủy chung lịch sử. Chính vì vậy, Việt Nam không chỉ là một quốc gia bạn, mà đã được Triều Tiên đưa vào danh sách “quốc gia bất khả xâm phạm”, điều hiếm thấy trong quan hệ quốc tế hiện đại, được xây dựng không phải trên lợi ích nhất thời, mà từ niềm tin, nghĩa tình.

Chuyến thăm của Tổng Bí thư Tô Lâm tới Cộng hoà Dân chủ Nhân dân Triều Tiên là dịp quan trọng để tiếp tục củng cố quan hệ hữu nghị truyền thống và mở ra những hướng hợp tác mới phù hợp với bối cảnh quốc tế đang thay đổi. Tuy nhiên, điều cần nhấn mạnh hơn cả là quan hệ Việt – Triều là một biểu tượng điển hình của đạo lý "uống nước nhớ nguồn".

Trong một thế giới đang ngày càng bị chi phối bởi chủ nghĩa thực dụng và những toan tính lợi ích, mối quan hệ Việt – Triều nhắc nhở rằng: niềm tin, ân tình và sự thủy chung vẫn còn giá trị, và đôi khi có sức mạnh to lớn.

Mỗi mùa lúa vàng bội thu trên đất Triều Tiên, mỗi hạt gạo nghĩa tình, mỗi hạt giống Việt Nam bén rễ, đều là biểu tượng âm thầm nhưng mạnh mẽ về một món nợ ân tình không thể đo đếm bằng tiền bạc. Đó là biểu hiện cao nhất của sự tin cậy chiến lược, được ghi dấu không chỉ trong ký ức của lãnh đạo hai nước, mà sẽ còn truyền lại cho các thế hệ tương lai như một bài học quý giá về cách hành xử đúng mực, "thủy chung, nhân nghĩa, nhất quán" mà Việt Nam kiên trì theo đuổi, là một minh chứng quý giá: Chỉ có đạo lý mới giữ được niềm tin. Chỉ có nghĩa tình mới vượt qua mọi biên giới.

V.X.B