Đối với Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) – vùng sản xuất nông nghiệp trọng điểm của cả nước – đây không chỉ là một lựa chọn, mà là yêu cầu tất yếu để bảo đảm sinh kế nông dân và duy trì vai trò chủ lực về an ninh lương thực. Tuy nhiên, tiến trình xây dựng nền nông nghiệp sinh thái ở ĐBSCL vẫn phải đối mặt với hàng loạt thách thức phức tạp, đòi hỏi giải pháp đồng bộ từ chính sách, khoa học – công nghệ đến tổ chức sản xuất.
Biến đổi khí hậu – lực cản lớn nhất
ĐBSCL đang là một trong ba đồng bằng bị tổn thương nặng nhất thế giới bởi nước biển dâng. Những đợt hạn mặn lịch sử năm 2016 và 2020 đã khiến hàng trăm nghìn héc-ta lúa mất trắng tại Bến Tre, Tiền Giang và Sóc Trăng. Mùa khô kéo dài gây cạn kiệt nguồn nước ngọt, trong khi triều cường và sạt lở diễn ra với tần suất tăng mạnh. Chỉ riêng An Giang và Đồng Tháp mỗi năm ghi nhận hàng chục điểm sạt lở nghiêm trọng dọc sông Tiền, sông Hậu.
Những yếu tố này làm thu hẹp diện tích đất nông nghiệp, giảm năng suất cây trồng và làm biến đổi cấu trúc hệ sinh thái. Đặc biệt, vùng ven biển Cà Mau, Bạc Liêu, Kiên Giang ghi nhận độ mặn xâm nhập sâu từ 50–70 km vào nội đồng, khiến mô hình lúa thuần trở nên bất ổn. Chính sự thay đổi bất định của tự nhiên đặt ĐBSCL trước yêu cầu chuyển đổi mạnh mẽ sang những mô hình sản xuất thích ứng như lúa – tôm, tôm – rừng, lúa – cá, hay canh tác đa giá trị trên cùng đơn vị diện tích.

Một mô hình nuôi cá tra sinh thái tại tỉnh Đồng Tháp. Ảnh: Internet.
Nông nghiệp sinh thái – hướng chuyển đổi phù hợp nhưng không dễ thực hiện
Nông nghiệp sinh thái dựa trên nguyên lý hài hòa giữa sản xuất và bảo tồn hệ sinh thái, sử dụng tài nguyên thiên nhiên hợp lý, giảm phát thải và gắn kết tri thức bản địa với khoa học hiện đại. ĐBSCL là vùng tiên phong cả nước trong các mô hình sinh thái, tiêu biểu như:
Mô hình lúa – tôm tại Cà Mau, Bạc Liêu, Sóc Trăng: thu nhập gấp 2–3 lần so với canh tác lúa đơn thuần; đồng thời giảm sử dụng phân hóa học và thuốc BVTV.
Mô hình tôm – rừng sinh thái ở Ngọc Hiển (Cà Mau): nông dân khai thác tôm dưới tán rừng ngập mặn và được cấp chứng nhận quốc tế (Naturland, EU Organic), giá bán cao hơn 15–20%.
Mô hình lúa – cá tại Đồng Tháp: cá bơi trong ruộng lúa giúp hạn chế sâu bệnh tự nhiên, giảm 30–40% chi phí phân thuốc; sản phẩm được doanh nghiệp bao tiêu.
Mô hình trồng dược liệu dưới tán rừng (An Giang – Kiên Giang): tạo sinh kế kép, vừa bảo tồn rừng vừa tạo thu nhập ổn định.
Tuy vậy, quá trình nhân rộng nông nghiệp sinh thái vẫn gặp khó khăn không nhỏ. Thực tế tại HTX Nông nghiệp Sinh thái Quyết Tiến (Đồng Tháp) cho thấy, dù mô hình đã chứng minh hiệu quả, nhiều người dân ban đầu vẫn e ngại vì quen với thâm canh truyền thống, sử dụng hóa chất và sản xuất theo kinh nghiệm. Chuyển đổi đòi hỏi thay đổi tư duy – điều không thể diễn ra trong thời gian ngắn.
Tại Sóc Trăng và Cà Mau, một số mô hình lúa – tôm dù hiệu quả kinh tế cao nhưng vẫn bị đe dọa bởi hạ tầng thủy lợi chưa hoàn chỉnh, dẫn đến mặn – ngọt không cân đối, ảnh hưởng tới cả lúa lẫn tôm. Điều này cho thấy rằng nông nghiệp sinh thái chỉ thực sự bền vững khi có sự hỗ trợ đồng bộ về kỹ thuật, quy hoạch thủy lợi, thông tin khí hậu và liên kết thị trường.
Các “nút thắt” lớn cản trở quá trình phát triển nông nghiệp sinh thái
Thứ nhất, Cơ chế chính sách chưa đồng bộ, thiếu công cụ khuyến khích: Dù đã có nhiều chính sách định hướng, nhưng ở cấp địa phương, các cơ chế hỗ trợ cụ thể như ưu đãi tín dụng xanh, hỗ trợ chứng nhận sản phẩm sinh thái, quỹ bảo vệ rủi ro khí hậu… vẫn còn thiếu. Nhiều địa phương chưa có bộ tiêu chí đánh giá mô hình sinh thái để làm cơ sở nhân rộng. Thứ hai, Hạn chế về nguồn vốn và tín dụng: Nông dân và HTX cần vốn để cải tạo đất, mua giống phù hợp hệ sinh thái, cải tiến hạ tầng canh tác. Tuy nhiên, tiếp cận vốn tín dụng xanh còn khó khăn, do mức vay nhỏ, quy trình phức tạp và thiếu tài sản thế chấp. Doanh nghiệp đầu tư vào chuỗi giá trị sinh thái cũng gặp rủi ro cao nên ít mặn mà.
Thứ ba, Thị trường tiêu thụ và chứng nhận sản phẩm còn yếu: Nhiều sản phẩm sinh thái của ĐBSCL như gạo hữu cơ, tôm sinh thái, rau bản địa… chưa có hệ thống truy xuất nguồn gốc chuẩn hóa, dẫn đến khó tiếp cận thị trường cao cấp. Việc thiếu hợp đồng liên kết sản xuất – tiêu thụ khiến giá cả bấp bênh, làm nông dân chùn bước khi tham gia mô hình mới.
Thứ tư, Nhân lực kỹ thuật còn thiếu: Cán bộ khuyến nông ở nhiều tỉnh chưa được đào tạo sâu về nông nghiệp sinh thái, công nghệ sinh học hay giám sát môi trường. HTX – mắt xích quan trọng trong tổ chức sản xuất – vẫn còn hạn chế về quản trị, dẫn đến việc áp dụng quy trình đồng bộ rất khó khăn.
Thứ năm, Vai trò trung tâm của cộng đồng, doanh nghiệp và chính quyền địa phương: Thực tế tại Cà Mau, Đồng Tháp, Sóc Trăng cho thấy: nơi nào chính quyền địa phương chủ động đồng hành, doanh nghiệp ký kết bao tiêu và người dân tin tưởng mô hình, nơi đó nông nghiệp sinh thái phát triển bền vững. Trung tâm Khuyến nông Quốc gia đã phối hợp nhiều tổ chức quốc tế xây dựng mô hình điểm và tập huấn hàng nghìn lượt cán bộ kỹ thuật. Một số tỉnh như Bến Tre và Trà Vinh đã thành lập mạng lưới “nông dân nòng cốt” để lan tỏa tri thức sinh thái đến cộng đồng. Đặc biệt, ở Cà Mau, hợp tác giữa nông dân – doanh nghiệp – tổ chức chứng nhận quốc tế đã tạo ra chuỗi tôm – rừng sinh thái tiêu thụ ổn định tại châu Âu. Đây là minh chứng rõ ràng rằng khi các bên cùng tham gia, mô hình sinh thái có thể vươn tới thị trường giá trị cao.
“Thuận thiên” – tư duy nền tảng cho quá trình chuyển đổi:
Trong điều kiện biến đổi khí hậu ngày càng cực đoan, tư duy “khai thác tối đa” không còn phù hợp. Tinh thần “thuận thiên” – sống hài hòa với tự nhiên – đã được thực tế chứng minh là cách tiếp cận đúng đắn cho ĐBSCL. Nông nghiệp sinh thái giúp khai thác tri thức bản địa (mùa tôm – mùa lúa, canh tác theo chu kỳ thủy văn, trồng cây bản địa chịu mặn…) kết hợp công nghệ hiện đại như cảm biến môi trường, giống chịu hạn – chịu mặn, hệ thống dự báo khí hậu.
Đây cũng là con đường mà Việt Nam cần đi để thực hiện cam kết phát thải ròng bằng “0” vào năm 2050. Nông nghiệp sinh thái không chỉ giảm phát thải mà còn tăng khả năng hấp thu carbon thông qua bảo vệ đất, phục hồi hệ sinh thái và phát triển rừng ngập mặn.
Phát triển nông nghiệp sinh thái ở ĐBSCL là một quá trình vừa cấp bách vừa lâu dài. Những thách thức về khí hậu, nguồn lực, thị trường và chính sách đang đặt ra yêu cầu chuyển đổi toàn diện, trong đó người dân phải được đặt vào trung tâm. Khi cơ chế hỗ trợ được hoàn thiện, vốn xanh được mở rộng, thị trường được liên kết chặt chẽ và tri thức sinh thái được lan tỏa, nông nghiệp sinh thái sẽ trở thành nền tảng quan trọng cho sự phát triển bền vững của ĐBSCL. Đây không chỉ là nhiệm vụ của ngành nông nghiệp, mà là chiến lược quốc gia để bảo vệ sinh kế, môi trường và tương lai của vùng đồng bằng lớn nhất Việt Nam.
V.X.B – N.TĐ