Những vấn đề lịch sử Việt Nam - Kỳ 22

Trân trọng giới thiệu tiếp với bạn đọc tác phẩm “Những vấn đề lịch sử Việt Nam” của PGS TS Cao Văn Liên do NXB Thanh Niên ấn hành năm 2022.

Kỳ 22.

 Nguyên nhân thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Pháp: Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Thực dân Pháp là do cuộc kháng chiến của ta đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Kháng chiến của ta là kháng chiến chính nghĩa, toàn dân. Do đó đã huy động được toàn dân kháng chiến. Toàn dân ta đã hy sinh vô bờ bến, đóng góp sức người, sức của cho cuộc kháng chiến, một lòng tin và đi theo Đảng, tin và đi theo lãnh tụ Hồ Chí Minh, tin tưởng vào thắng lợi cuối cùng. Hàng vạn chiến sĩ vô danh, hữu danh đã anh dũng chiến đấu, hi sinh trên con đường đi đến vinh quang thắng lợi. Thắng lợi còn là do sức mạnh của tình đoàn kết chiến đấu của ba nước Đông Dương, tình đoàn kết này đã tạo nên sức mạnh chống kẻ thù chung. Thắng lợi của nhân dân ba nước Đông Dương không tách rời sự ủng hộ giúp đỡ của nhân dân yêu chuộng hoà bình trên thế giới, của nhân dân tiến bộ và Đảng Cộng sản Pháp, của nhân dân và các Đảng Cộng sản ở các nước xã hội chủ nghĩa, đặc biệt là sự giúp đỡ to lớn của nhân dân Liên Xô, Trung Quốc. Là thắng lợi của chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng quân sự Mác xít được Đảng ta và Hồ Chí Minh vận dụng một cách sáng tạo vào hoàn cảnh cụ thể của nước ta. Đó là thắng lợi của chủ nghĩa yêu nước của toàn dân, của truyền thống quân sự dân tộc, của tư tưởng quân sự Hồ Chí Minh trong thời đại mới.

 Kinh nghiệm của cuộc kháng chiến chống Pháp hết sức phong phú, đó là kinh nghiệm chăm sóc sức dân để đoàn kết toàn dân, để toàn dân ủng hộ chính quyền thì mới tạo nên sức mạnh, vì chiến tranh tuân theo một quy luật khắc nghiệt là mạnh được yếu thua, là sự thử thách toàn diện đối với một quốc gia, một chế độ. Từ đoàn kết toàn dân mới phát huy cao độ tinh thần yêu nước, mới phát động được chiến tranh nhân dân. Chiến tranh nhân dân là một trong những kinh nghiệm quý báu viết bằng máu của cuộc kháng chiến chống Pháp.

8. Cuộc kháng chiến chống Mỹ xâm lược (1954-1975).

8. 1. Đánh bại cuộc chiến tranh một phía của Mỹ- ngụy (1954-1959).

 Sau đại chiến thế giới thứ II (1939-1945) trung tâm phản cách mạng từ Đức chuyển sang Mỹ. Với tiềm năng kinh tế, quân sự to lớn, Mỹ vươn lên đứng đầu thế giới tư bản chủ nghĩa, thực hiện chiến lược toàn cầu chống chủ nghĩa xã hội, chống phong trào giải phóng dân tộc, thực hiện chủ nghĩa thực dân mới với âm mưu làm bá chủ thế giới. Việt Nam với vị trí chiến lược quan trọng ở Đông Nam Á, đi tiên phong trong phong trào giải phóng dân tộc và phong trào chủ nghĩa xã hội ở khu vực. Vì thế Mỹ quyết tâm đè bẹp cách mạng Việt Nam. Sau khi Pháp thất bại, Mỹ nhảy vào thay thế Pháp ở Đông Dương. Mỹ ra sức phá hoại Hiệp định Giơnevơ, phá hoại sự nghiệp thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam, chiếm đóng và biến miền Nam thành thuộc địa kiểu mới của Mỹ, thành căn cứ quân sự để ngăn chặn phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc, ngăn chặn và tấn công chủ nghĩa xã hội ở Đông Nam Á mà trước hết là chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc Việt Nam. Đông Nam Á trở thành một trong các khu vực thực hiện chiến lược toàn cầu của Mỹ. Để đạt mục đích trên Mỹ đã tiến hành xâm lược miền Nam Việt Nam bằng chủ nghĩa thực dân mới, tiêu diệt lực lượng cách mạng miền Nam, gấp rút chuẩn bị tấn công miền Bắc.

 Để thực hiện mục đích xâm lược trên, Mỹ gấp rút xây dựng bộ máy Ngụy quyền, đứng đầu là Ngô Đình Diệm, ra sức xây dựng quân đội ngụy lên đến 50 vạn, trong đó có 20 vạn là quân chính quy. Chính quyền Ngô Đình Diệm tự mạo nhận là “Cách mạng quốc gia” nêu chiêu bài “Đả thực bài phong” để che dấu dã tâm bán nước. Trên thực tế chính quyền Ngô Đình Diệm đã thực hiện chính sách tố cộng, diệt cộng để đàn áp tiêu diệt những người kháng chiến chống pháp, gây nên những cuộc tàn sát đẫm máu ở miền Nam Việt Nam. Chính sách đàn áp khủng bố của Mỹ -Diệm gây cho ta những tổn thất nặng nề.

 Do sự xâm lược của đế quốc Mỹ bằng chủ nghĩa thực dân mới mà tính chất xã hội miền Nam Việt Nam là xã hội thuộc địa kiểu mới nửa phong kiến. Mâu thuẫn cơ bản của xã hội miền Nam là mâu thuẫn giữa toàn thể dân tộc Việt Nam với đế quốc Mỹ xâm lược, mâu thuẫn cơ bản thứ hai là mâu thuẫn giữa nông dân với địa chủ phong kiến. Trong hai mâu thuẫn cơ bản đó nổi bật là mâu thuẫn giữa dân tộc Việt Nam với đế quốc Mỹ và mâu thuẫn này trở thành mâu thuẫn chủ yếu. Để giải quyết những mâu thuẫn trên, miền Nam phải tiếp tục tiến hành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân chống đế quốc Mỹ và chính quyền tay sai đại diện cho tư sản mại bản, địa chủ phản động ở miền Nam. Con đường cơ bản của cách mạng miền Nam là phải thực hiện khởi nghĩa giành chính quyền về tay nhân dân bằng sức mạnh chính trị của quần chúng, kết hợp với lực lượng vũ trang đánh đổ ách thống trị của đế quốc phong kiến, xây dựng chính quyền cách mạng của nhân dân, tiến tới hòa bình thống nhất đất nước.

 Trong phong trào đấu tranh chính trị của hàng triệu nhân dân miền Nam Việt Nam đã xuất hiện hình thức đấu tranh vũ trang và lực lượng vũ trang phối hợp. Đêm 17-1-1960 nhân dân Bến Tre nhất tề vùng dậy tấn công lật đổ chính quyền địch, lập chính quyền cách mạng. Từ Bến Tre, Phong trào Đồng khởi lan ra khắp các tỉnh Nam Bộ, Tây Nguyên và một số tỉnh miền Trung. Sự vùng dậy của nhân dân đã tạo nên một cao trào đồng khởi toàn miền Nam. Kết quả của phong trào đồng khởi là vùng giải phóng ra đời, từ Tây Nguyên nối liền đồng bằng Nam Bộ với đồng bằng Liên khu 5, phá vỡ từng mảng lớn và làm lung lay chính quyền Ngô Đình Diệm, đưa cách mạng miền Nam từ đấu tranh chính trị sang chiến tranh cách mạng kết hợp đấu tranh chính trị với đấu tranh vũ trang. Ngày 20-12-1960 Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam ra đời đoàn kết tất cả các lực lượng, tôn giáo, đảng phái để tiến hành cách mạng dân tộc dân chủ, tiến tới hòa bình thống nhất nước nhà. Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam do luật sư Nguyễn Hữu Thọ làm Chủ tịch trở thành ngọn cờ tập hợp lực lượng nhân dân để thực hiện cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân miền Nam đi tới thắng lợi. Năm 1963 Mỹ đảo chính lật đổ Ngô Đình Diệm, đẩy ngụy quyền vào cuộc khủng hoảng triền miên không thể nào khắc phục được.

8. 2. Đánh bại chiến tranh đặc biệt của Mỹ và ngụy (1961-1964).

 Trước sự phát triển của phong trào cách mạng miền Nam, chuyển từ đấu tranh chính trị sang thời kỳ kết hợp chiến tranh với cách mạng, giữa năm 1961, Mỹ chính thức phát động cuộc chiến tranh chống nhân dân miền Nam với chiến lược chiến tranh đặc biệt. Ta đã đánh bại chiến lược chiến tranh đặc biệt của Mỹ-Ngụy. Từ 1961 đến 1964 ta đã loại khỏi vòng chiến đấu 30.100 tên địch, trong đó có  3.200 lính Mỹ. Đến tháng 6-1965 ta diệt 9 vạn tên địch trong đó có 3 vạn tên Mỹ, 50 vạn ngụy binh tan rã về tinh thần. Vùng giải phóng của ta được mở rộng, thành hậu phương trực tiếp của cách mạng miền Nam. Chính quyền cách mạng được hình thành, lực lượng chính trị, lực lượng vũ trang 3 thứ quân lớn mạnh. Đầu năm 1965 chiến lược chiến tranh đặc biệt của Mỹ - Ngụy bị thất bại hoàn toàn. Mỹ thất bại trong âm mưu dùng người Việt đánh người Việt. Thất bại này buộc Mỹ bị động chuyển sang chiến lược chiến tranh cục bộ, trực tiếp xâm lược công khai, hoàn toàn mâu thuẫn chính sách thực dân mới của Mỹ.

8. 3. Đánh bại chiến lược chiến tranh cục bộ (1965-1968).                                         Thất bại trong chiến tranh đặc biệt, Tổng thống Mỹ Giôn-Xơn chuyển sang chiến lược chiến tranh cục bộ để tiếp tục chiến tranh xâm lược Việt Nam. Chiến tranh cục bộ là chiến lược chiến tranh mà quân Mỹ trực tiếp tham chiến. Đây là loại chiến tranh trong chiến lược toàn cầu Mỹ dùng để tham chiến khi chiến tranh với các nước xã hội chủ nghĩa. Ở miền Nam Việt Nam trong chiến tranh cục bộ Mỹ dùng cả hai lực lượng quân Mỹ và quân Ngụy. Đây là hai lực lượng chiến lược có vai trò quan trọng phối hợp với nhau, quân Mỹ đóng vai trò nòng cốt, là lực lượng cơ động chủ yếu trên chiến trường, quân Ngụy làm nhiệm vụ bình định, giữ đất và kìm kẹp nhân dân. Quân Ngụy và chính quyền tay sai vẫn là chỗ dựa chính trị cho cuộc chiến tranh xâm lược của Mỹ. Thực hiện chiến tranh cục bộ, Mỹ ào ạt đổ quân và các phương tiện chiến tranh vào miền Nam Việt Nam. Đồng thời Mỹ dùng không quân và hải quân phong tỏa đánh phá miền Bắc nhằm ngăn chặn sự chi viện sức người sức của cho miền Nam, đánh vào hậu phương lớn của cuộc kháng chiến chống Mỹ ở Miền Nam. Ngày 8-3-1965 hai tiểu đoàn quân Mỹ đổ bộ vào Đà Nẵng mở đầu cho việc quân Mỹ trực tiếp tham chiến ở miền Nam Việt Nam. Cho đến chiến dịch mùa khô lần 1 (1965-1966) quân Mỹ lên 20 vạn, Chiến dịch mùa khô lần 2 (1966-1967) quân Mỹ tăng lên 38 vạn cùng 54 vạn quân Ngụy, 5 vạn quân chư hầu (quân đội Ôtxrâylia , Hàn Quốc, Thái Lan). Cao điểm nhất của cuộc chiến tranh cục bộ có tới 65 vạn quân Mỹ, 80 vạn quân Ngụy, 66.000 quân chư hầu với những phương tiện chiến tranh hiện đại nhất. Không quân, hải quân Mỹ thực hiện những cuộc tấn công hai gọng kìm nhằm bình định miền Nam và tiêu diệt quân giải phóng. Phối hợp với chiến trường miền Nam, 1965 Mỹ bắt đầu dùng không quân bắn phá dữ dội miền Bắc, dùng hải quân và thủy lôi dày đặc phong tỏa tất cả các vùng biển, lãnh hải của Việt Nam. Mỹ đẩy cuộc chiến tranh ra toàn lãnh thổ Việt Nam với mức độ ác liệt nhất.

 Nhân dân Việt Nam quyết tâm đánh bại cuộc chiến tranh cục bộ của Mỹ: Mở đầu là trận giao chiến ở Vạn Tường (Bình Hải, Bình Sơn, Quảng Ngãi). 9.000 tên Mỹ, 1 tiểu đoàn xe tăng, xe bọc thép (105 chiếc), 70 máy bay chiến đấu, 100 máy bay lên thẳng mở cuộc càn quét. Sau một ngày chiến đấu ta diệt 900 tên, bắn cháy 223 xe tăng, xe bọc thép, hạ 13 máy bay. Trận Vạn Tường tháng 8-1965 là thắng lợi vang dội chứng minh nhân dân Việt Nam có thể đánh thắng quân đội Mỹ. Tiếp trận Vạn Tường là trận Núi Thành (huyện Núi Thành, tỉnh Quảng Nam) ta đánh tiêu diệt làm quân Mỹ khiếp sợ. Vạn Tường và Núi Thành tạo nên cao trào diệt Mỹ trên khắp các chiến trường miền Nam. Địch mở cuộc hành quân mùa khô lần 1 (1965-1966) và cuộc hành quân mùa khô lần 2 (1966-1967) với hàng chục vạn lính Mỹ cùng chư hầu nhằm tiêu diệt quân giải phóng. Kết quả, Mỹ bị tổn thất nặng nề. Trong mùa khô lần 1, 104.000 lính bị tiêu diệt, trong đó có 42.500 tên Mỹ, 3.500 lính chư hầu, 1.430 máy bay bị bắn rơi, 600 máy bay, 1.310 xe, 80 pháo bị phá huỷ, 24 tàu chiến bị bắn cháy. Chiến dịch mùa khô lần 2 địch bị tiêu diệt 151.000 tên, trong đó có 68.200 tên Mỹ, 5.540 lính đồng minh, 1.213 máy bay bị bắn rơi,  1.627 xe tăng 2.107 ô tô, 308 pháo bị phá huỷ, 42 tàu xuồng bị bắn cháy. Thừa thắng quân và dân miền Nam nổi dậy tổng tấn công Tết Mậu Thân 1968 (bắt đầu từ 30-1-1968) trong đó 30/44 tỉnh, 5/6 thành phố nổi dậy. Tại Sài Gòn quân ta tấn công tòa Đại sứ Mỹ, dinh Độc Lập, Bộ tổng tham mưu, sân bay Tân Sơn Nhất, Tổng nha cảnh sát, Đài phát thanh Sài Gòn. Ở Huế quân dân ta làm chủ thành phố suốt 25 ngày. Kết quả cuộc tổng tấn công và nổi dậy, quân dân miền Nam tiêu diệt 15 vạn tên địch, trong đó có 45.000 tên Mỹ, bắn rơi 2.370 máy bay, bắn chìm 233 tàu xuồng, phá huỷ 3.500 xe quân sự. Ở miền Bắc ta đã đập tan cuộc chiến tranh phá hoại bằng không quân của Mỹ. Từ 5-8-1964 đến 1-11 -1968 ta đã bắn rơi 3. 213 máy bay các loại, trong đó có 6 B52, tiêu diệt bắt sống hàng nghìn tên giặc lái, bắn cháy hàng trăm tàu chiến. Chiến lược chiến tranh cục bộ của Mỹ hoàn toàn thất bại. Thế chiến lược của Mỹ bị đảo lộn, ý chí xâm lược lung lay. Mỹ phải xuống thang chiến tranh và ngồi vào đàm phán với ta tại hội nghị Pa ri.

8. 4. Đánh bại chiến lược Việt Nam hóa chiến tranh của Mỹ: Hiệp định Pa ri (1969-1973). Thất bại trong chiến tranh cục bộ và nhiều nguyên nhân khác làm cho Giôn Xơn phải rời khỏi Nhà Trắng, Ních Xơn trở thành Tổng thống mới của Hoa Kỳ. Ních Xơn đưa ra học thuyết mang tên ông ta , “Học thuyết Ních Xơn”. Học thuyết này dựa trên ba nguyên tắc chủ yếu: Sức mạnh Mỹ, chia sẻ trách nhiệm, sẵn sàng thương lượng. Trên cơ sở những nguyên tắc đó Ních Xơn đề ra chiến lược Việt Nam hóa chiến tranh để nhằm kéo dài cuộc chiến tranh xâm lược ở miền Nam Việt Nam. Với chiến lược này, Ních Xơn dùng ba loại chiến tranh khác nhau: Chiến tranh giành dân, chiến tranh bóp nghẹt và chiến tranh huỷ diệt. Như vậy Việt Nam hóa chiến tranh là dùng người Việt đánh người Việt, dùng người Đông Dương đánh người Đông Dương, vực quân Ngụy để thay thế quân Mỹ trên chiến trường. Vì thế quân số quân Ngụy trong thời gian này lên đến 1 triệu tên. Thực hiện chủ trương bình định nông thôn, địch dùng các thủ đoạn kinh tế, chính trị, văn hoá để ra sức lừa bịp nhân dân, tiếp tục dùng không quân, hải quân đánh phá trở lại miền Bắc nhằm “bóp nghẹt” cách mạng miền Nam. Ở chiến trường Lào, Ních Xơn thực hiện Lào hóa chiến tranh bằng cách xây dựng “lực lượng đặc biệt” của tên phỉ Vàng Pao, dùng quân đội Thái Lan, ngụy quyền Sài Gòn tấn công vùng giải phóng Cánh Đồng Chum, Xiêng Khoảng.

 Ngày 18-3-1970 Mỹ làm cuộc đảo chính ở Campuchia lật đổ Quốc Vương Xihanúc, thành lập chính phủ tay sai do Lonnon cầm đầu và tiến hành “Khơ Me hoá chiến tranh”, đưa quân Ngụy Sài Gòn vào tác chiến ở Campuchia. Việt Nam hóa chiến tranh trở thành Đông Dương hóa chiến tranh. Để đánh bại Việt Nam hoá chiến tranh, ta chủ trương đẩy mạnh tiến công toàn diện về quân sự, chính trị, ngoại giao, tấn công trên cả ba vùng chiến lược, lấy nông thôn là hướng tấn công chính để phá thế kìm kẹp của địch, tiêu diệt địch, nghĩa là đập tan ba loại chiến tranh khác nhau của Ních Xơn. Thực hiện chủ trương đó, nhân dân miền Nam đã tiếp tục đẩy mạnh cuộc đấu tranh chính trị, phá sự kìm kẹp của địch. Từ 1969-1971 trên 20 triệu lượt người đã nổi dậy đánh bại một bước quan trọng chiến lược kìm kẹp, bình định của địch, tấn công làm tan rã 12.200 lượt dồn dân lập ấp chiến lược, giành quyền làm chủ ở 51.116 ấp chiến lược, tiêu diệt 455 đoàn bình định. Nhân dân ta đã làm chủ Quảng Trị, 300km2 đất đai vùng Tây Nguyên, ở miền Trung 60 vạn dân, ở miền Đông Nam Bộ thêm 10 vạn dân, ở đồng bằng sông Cửu Long hơn 1 triệu dân và 1.100 ấp chiến lược được giải phóng.

 Tháng 3-1970 ta đánh bại cuộc hành quân quy mô lớn của 10 vạn quân nguỵ Sài Gòn vào Campuchia nhằm khóa biên giới Tây Nam, bóp nghẹt cuộc kháng chiến của nhân dân miền Nam Việt Nam. Trong chiến dịch này ta loại khỏi vòng chiến đấu 54.785 địch trong đó có 13.770 tên Mỹ, bắn rơi 620 máy bay, phá hủy 3.375 xe, 66 tàu xuồng, giải phóng một vùng rộng lớn của Campuchia với 4, 5 triệu dân (trong tổng số 7 triệu ) tạo nên một địa bàn chiến lược liên hoàn cho 3 nước Đông Dương.

 Năm 1971 từ tháng 2 đến tháng 3 ta đánh bại cuộc hành quân “Lam Sơn 719” của 3 vạn quân ngụy Sài Gòn và 15.000 tên Mỹ đánh vào đường 9 Nam Lào nhằm cắt đứt đường mòn Hồ Chí Minh, cắt đứt sự tiếp tế của miền Bắc cho miền Nam, bóp nghẹt cuộc kháng chiến của nhân dân Campuchia. Từ 8-2 đến 23-3-1971, tại Lào, ta diệt 23.000 tên, bắn rơi 500 máy bay, phá huỷ 150 pháo, bắn chìm 43 tàu xuồng. Từ 30-1 đến 31-3-1971 tại Khe Sanh-đường 9 ta tiêu diệt  7.000 tên địch, trong đó có 4.054 tên Mỹ, phá huỷ 863 xe, bắn chìm 43 tàu, bắn rơi 234 máy bay. Thất bại ở Đường 9- Nam Lào mở ra khả năng thất bại của Việt Nam hóa chiến tranh. Công thức quân Ngụy cộng sức mạnh quân sự Mỹ phá sản. Ta bảo vệ được đường mòn Hồ Chí Minh và toàn bộ hành lang chiến lược, bảo đảm sự tiếp viện thông suốt từ Bắc vào Nam. Chiến tranh bóp nghẹt của Ních Xơn phá sản. Tháng 8 -1971, quân ta cùng quân giải phóng Cam pu chia đánh bại cuộc hành quân Chen La II do quân ngụy Lon non Campuchia thực hiện để bình định miền Tây sang miền Đông  Campuchia. Ngày 2-12-1971 quân Lonnon thất bại tháo chạy. Khơme hóa chiến tranh bị phá sản. Vùng giải phóng Campuchia được mở rộng gần 80% đất đai và 60% dân số. Cùng thời gian đó liên quân Lào -Việt tấn công ngụy Viên Chăn, lính Mỹ và lính Thái Lan, giải phóng toàn bộ khu vực Cánh Đồng Chum, Mường Xủi, Xiêng Khoảng, giải phóng thêm Xảm Thông, thị xã Atôpơ, Xaravan và cao nguyên Bôlôven.

(Còn nữa)

CV