Thực hiện Chương trình, Nghị Quyết và các kế hoạch hành động cụ thể của Hội đồng Nhân dân, UBND Hà Nội, Ngành nông nghiệp Thủ đô đã xây dựng Đề án phát triển Nông nghiệp Đô thị trong giai đoạn từ 2022 đến 2026 nhằm đáp ứng yêu cầu xây dựng thành phố thông minh. Bài viết đề cập đến những vấn đề đặt ra đối với nông nghiệp trong xây dựng thành phố thông minh.
1. Đặc điểm của sản xuất nông nghiệp Thủ đô
Đến năm 2022, Hà Nội có diện tích tự nhiên 3.359,82km2 và trên 8,53 triệu dân trong đó dân số ở nông thôn chiếm 50,9%. Hà Nội có 12 quận, 17 huyện và 1 thị xã, gồm 175 phường, 21 thị trấn và 383 xã. Với số huyện xã và dân số nông thôn khá lớn, phát triển nông nghiệp, nông thôn và cải thiện đời sống nông dân luôn là nhiệm vụ trọng tâm của cả thành phố. Nhờ vị trí địa lý thuận lợi, có tiềm năng phát triển du lịch sinh thái kết hợp cùng giá trị văn hóa của các làng nghề, nông nghiệp Hà Nội có thể tạo được động lực quan trọng để phát triển kinh tế xã hội Thủ đô.
Diện tích đất nông nghiệp của thành phố có trên 197.793 ha, chiếm 58,9% diện tích tự nhiên, đất lâm nghiệp có rừng chiếm 6,1%, nuôi trồng thủy sản 4,5% và đất nông nghiệp khác khoảng 2%, Cuối năm 2022, sản xuất nông nghiệp chiếm 2,3% tổng sản phẩm (GRDP) trên địa bàn, mới đáp ứng được từ 30% đến 65% nhu cầu LTTP của cư dân thành phố. Thực trạng phát triển cho thấy, thành phố còn nhiều tiềm năng để phát triển nền nông nghiệp để xứng tầm với vai trò và vị trí Thủ đô.
Sau hơn 10 năm thực hiện chương trình xây dựng NTM, nông thôn Hà Nội đã khởi sắc. Kết cấu hạ tầng được nâng cấp; kinh tế nông thôn phát triển mạnh, môi trường có những chuyển biến tích cực, đời sống vật chất, tinh thần của người dân được nâng cao, nhiều nơi đã trở thành những làng quê đáng sống với 382/382 xã được công nhận đạt chuẩn NTM, có thu nhập bình quân đầu người tăng từ 15,7 triệu (năm 2010) lên 59,4 triệu VNĐ (2022) và tỷ lệ hộ nghèo giảm từ 1,25% xuống còn 0,37% từ năm 2020.
Sự chỉ đạo đồng bộ cuả Thành ủy, HĐND, UBND Thành phố cùng với sự lãnh đạo chăt chẽ của các huyện, xã và sự vào cuộc quyết liệt của mọi tầng lớp dân cư, nông thôn Hà Nội đã có những thành công to lớn, đưa Thủ đô trở thành một trong những địa phương dẫn đầu cả nước trong cuộc vận động xây dựng NTM.
Theo Chương trình 04-CTr/TU của Thành ủy Hà Nội về “Đẩy mạnh thực hiện hiệu quả Chương trình mục tiêu quốc gia Xây dựng NTM gắn với cơ cấu lại ngành nông nghiệp và phát triển kinh tế nông thôn, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nông dân”, thực hiện Nghị Quyết của Hội đồng ND, UBND thành phố và các kế hoạch hành đông cụ thể; Ngành nông nghiệp Thủ đô đã xây dựng Đề án phát triển nông nghiệp Đô thị (NNĐT) trong giai đoaạn từ 2022 đến 2026. Đề án đã tập trung vào đánh giá thực trạng và đề xuất các giải pháp thực hiện đối với các đối tượng doanh nghiệp, hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã, tổ hợp tác, trung tâm dịch vụ, hộ gia đình, cá nhân trực tiếp hoạt động sản xuất, làm dịch vụ nông nghiệp và các cơ quan quản lý, tổ chức có liên quan.
2. Nông nghiệp đô thị và ảnh hưởng của nhu cầu phát triển Thủ đô
Không gian NNĐT có thể phân thành 3 vùng theo đặc điểm của đô thị hoá. Đó là vùng nông thôn ven đô, đô thị ven đô và vùng nội đô. Trong phân tích phát triển NNĐT ven đô, các nhà nghiên cứu cho rằng, nông nghiệp của Hà Nội, Hải Phòng và nhiều thành phố ở nước ta thường phát triển theo mô hình 3 vành đai, gồm vành đai nông nghiệp chuyên canh, nông nghiệp đa dạng hóa và nông nghiệp thích ứng.
Dân số Hà Nội gia tăng nhanh đã nảy sinh lo ngại về cung cấp lương thực. Làm thế nào giữ an ninh lương thực bền vững mà không gây nguy hại tài nguyên môi trường? là vấn đề lớn đặt ra.
Khi đất nông nghiệp thuộc quyền quản lý của chính quyền đô thị, đất nông nghiệp được giao cho nhà đầu tư, nông dân mất đất canh tác. Mặt khác, đất nông nghiệp manh mún, không liền mạch nên việc mở rộng canh tác và đầu tư sản xuất lớn gặp nhiều khó khăn. Các HTX nông nghiệp giải thể hoặc ngừng hoạt động dẫn đến đất đai bị bỏ hoang hóa. Với hạn chế về tuổi tác, trình độ học vấn và kỹ năng làm việc, nông dân khó có cơ hội tìm kiếm việc làm. Trong đẩy nhanh đô thị hóa, NNĐT giữ vai trò quan trọng để đảm bảo sinh kế và việc làm cho cư dân nghèo.
Nhu cầu “thực phẩm an toàn” ngày một gia tăng, nhưng hộ sản xuất nhỏ, không có phương tiện hoặc chưa được đào tạo kỹ thuật để đáp ứng các yêu cầu về thực phẩm an toàn. Thêm nữa, dân số đô thị tăng nhanh còn kéo theo những vấn đề nảy sinh như ô nhiễm nguồn nước, không khí và vấn đề môi trường ngày càng trở nên nghiêm trọng.
NNĐT không chỉ giữ vai trò quan trọng trong chiến lược bền vững sinh kế, tạo nguồn thu GDP dựa trên giá trị gia tăng từ đất nông nghiệp mà còn được xem là hướng đi khả dĩ để giải quyết những bất cập liên quan đến quá trình đô thị hóa như an ninh lương thực và môi trường, hướng tới xây dựng đô thị sinh thái và cảnh quan bền vững trong tương lai.
Phát triển NNĐT sẽ từng bước thay đổi nhận thức của người dân từ sản xuất nông nghiệp theo phương thức truyền thống sang sản xuất nông sản hàng hóa, ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật và phương pháp canh tác mới theo hướng sinh thái, bền vững, an toàn sinh học, giảm thiểu tác động ô nhiễm, cải thiện môi trường và cảnh quan đô thị. NNĐT đóng góp quan trọng vào chiến lược đô thị hóa xanh, thông minh và bền vững. Phát triển NNĐT sản xuất sản phẩm chất lượng, đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm, an ninh dinh dưỡng, nâng cao sức khỏe cộng đồng, đảm bảo không chỉ phát triển nền nông nghiệp toàn diện, bao trùm mà còn bảo tồn được các giống, loài cây trồng và vật nuôi.
Trên quan điểm của hệ thống lương thực thực phẩm (LTTP) bền vững, Hà Nội còn nhiều khó khăn trong phân phối và tiêu dùng nông sản thực phẩm. Quá trình đô thị hóa tác động mạnh tới sự đa dạng, mật độ và khoảng cách của các điểm cung cấp thực phẩm. Các điểm bán thực phẩm trong đô thị đòi hỏi đa dạng hơn nhiều so với nông thôn, người tiêu dùng (NTD) đô thị tiếp cận thực phẩm qua nơi bán thực phẩm như các chợ truyền thống, điểm bán thực phẩm hiện đại, các siêu thị và chuỗi cửa hàng tiện ích. Nhu cầu tiêu dùng của đô thị không phụ thuộc nhiều vào tính chất mùa vụ và chế độ ăn của người dân có thêm thực phẩm được du nhập từ nước ngoài đóng vai trò quan trọng trong quyết định lựa chọn thực phẩm tiêu dùng.
Trong những thập kỷ gần đây, an toàn thực phẩm đã trở thành vấn đề quan tâm hàng đầu của NTD. Năm 2013, Việt Nam đứng thứ 13 trong số những nước có nhiều sai phạm về an toàn thực phẩm. Nghiên cứu gần đây đã chỉ ra, 89% NTD thế giới đang tiêu thụ thực phẩm không an toàn. Mức độ đô thị hóa nhanh đã tạo áp lực lớn tới cung cấp thực phẩm truyền thống. Việc sử dụng quá mức đầu vào cho sản xuất nông nghiệp như lạm dụng chất kháng sinh, thuốc trừ sâu, phân bón hóa học và kiểm soát lỏng lẻo hoặc nhập khẩu lậu, thiếu truy xuất nguồn gốc là những tác nhân gây mất an toàn thực phẩm. Đây cũng là thách thức lớn trong thực hành sản xuất của các nhà sản xuất quy mô còn nhỏ.
Hà Nội có hệ thống thực phẩm đa dạng với nhiều lựa chọn khác nhau giữa các vùng miền, nhóm dân tộc, khí hậu và mùa vụ. Trong khi lúa gạo là thực phẩm chính, thì sở thích và cách lựa chọn ngày càng thay đổi, thịt lợn tăng nhanh trong những năm gần đây và tiêu thụ các loại rau xanh trở nên vô cùng quan trọng. Mặc dù sản phẩm sữa không phải là thực phẩm được ưa chuộng trong chế độ ăn truyền thống, nhưng xu hướng tiêu dùng lại ngày càng mở rộng. Việc lựa chọn thực phẩm đầy đủ dinh dưỡng và thực phẩm có mùi vị ngon và hấp dẫn ngày một gia tăng. Sở thích lựa chọn thực phẩm có sự thay đổi và khác nhau giữa các thế hệ. Trong đó, giới trẻ có xu hướng thích tiêu thụ thực phẩm hiện đại có nguồn gốc từ phương Tây, còn người lớn tuổi lại thích tiêu thụ thực phẩm truyền thống. Hành vi tiêu dùng hướng tới “ăn ngon miệng hơn” đã ảnh hưởng lớn tới chất lượng bữa ăn trong ngắn và dài hạn.
Ăn uống bên ngoài hộ gia đình ngày càng trở nên phổ biến, người tiêu dùng lựa chọn ăn bên ngoài vì lý do thuận tiện, tiết kiệm thời gian cho nấu nướng và chi phí rẻ hơn mua đồ ăn để nấu nướng tại nhà. Chiến lược phát triển nông nghiệp nông thôn bền vững đến 2030 và tầm nhìn 2045 xác định rõ định hướng nông nghiệp sinh thái. Với Hà Nội, Luật Thủ đô sửa đổi đã xác định tầm nhìn đô thị sinh thái, bền vững và khẳng định rõ vai trò của NNĐT.
Để đạt được mục tiêu phát triển bền vững, gắn sản xuất Nông nghiệp với cung ứng và tiêu dùng LTTP, Chính phủ đã ban hành Kế hoạch hành động quốc gia Chuyển đổi hệ thống LTTP minh bạch, trách nhiệm và bền vững đến năm 2030 (Quyết định 300 ngày 28/03). Theo đó, đã quy định Chuyển đổi hệ thống LTTP là nhiệm vụ liên ngành với sự vào cuộc của mọi tác nhân trong toàn hệ thống, được thực hiện đồng thời ở nhiều cấp từ Trung ương tới địa phương dưới sự giám sát, điều hành thống nhất và xuyên suốt của Chính phủ. Xây dựng đề án Phát triển NNĐT theo hướng tích hợp thực hiện Kế hoạch hành động quốc gia là có cơ sở pháp lý và thực tiễn ở Thủ đô.
3. Xây dựng nông nghiệp đô thị từ góc nhìn nghiên cứu
NNĐT hay thông minh còn gọi là nông nghiệp chính xác với mục tiêu làm cho việc canh tác nông nghiệp hiệu quả, bởi được kiểm soát chặt chẽ và mang lại lợi nhuận cao trong trồng trọt, chăn nuôi gia súc và nuôi trồng thủy sản.
Mục tiêu của chương trình nông nghiệp thông minh nhằm phát triển và thương mại hóa những công nghệ chính xác, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao trong nông nghiệp; thông qua các chương trình nghiên cứu, tăng cường kết nối với các tổ chức trong, ngoài nước; phát triển liên kết với ngành công nghiệp để tiếp cận, chuyển giao công nghệ, phát triển kỹ năng và dịch vụ cộng đồng.
NNĐT thông minh là một xu hướng mới nhằm đảm bảo an toàn LTTP cho đô thị. Ở nước ta, tuy đã xuất hiện nông nghiệp thông minh, nhưng quy mô nhỏ và dường như chưa có mô hình hoàn chỉnh.
Theo tổ chức Phát triển Liên Hơp Quốc (UNDP1996), NNĐT là hoạt động sản xuất các loại thực phẩm và sản phẩm nông nghiệp dựa trên quỹ đất và nguồn nước ở khu vực đô thị. Hoạt động này dùng phương pháp sản xuất chuyên canh, sử dụng nguyên liệu tự nhiên, chất thải ở đô thị và tập trung chủ yếu vào phát triển sản xuất nông nghiệp bền vững.
Gần đây, xu hướng phát triển NNĐT đã được nhìn nhận toàn diện và hệ thống hơn. Mạng lưới Nông nghiệp Đô thị Thế giới định nghĩa, NNĐT là ngành sản xuất, chế biến và tiếp thị thực phẩm, nhiên liệu và các sản phẩm đầu ra để đáp ứng nhu cầu hàng ngày của NTD trong các thị trấn, thành phố hoặc đô thị.
Theo khái niệm của Mạng lưới chuyên đề canh tác thông minh châu Âu, canh tác thông minh là ứng dụng công nghệ thông tin hiện đại (ICT) vào nông nghiệp. Cuộc cách mạng này phối hợp ICT với những thiết bị chính xác để kết nối vạn vật (IoT), cảm biến, định vị toàn cầu, quản lý dữ liệu lớn (Big data), thiết bị bay không người lái (Drone), người máy (robot)..., tạo điều kiện cho người dân tăng thêm giá trị và đưa ra những quyết định khai thác, quản lý hiệu quả hơn.
NNĐT có đặc điểm là phải tổ chức sản xuất trong không gian chật hẹp, ít đất canh tác. Đóng góp của NNĐT đối với đời sống dân cư phụ thuộc vào những thuận lợi và khó khăn kể và nhận thức về kiểm soát, giám sát rủi ro.
So với nông nghiệp truyền thống, NNĐT có lợi thế cạnh tranh nhất định, đặc biệt có thể cung cấp cho các thị trường đô thị những sản phẩm có chi phí rẻ, bao gồm cả chi phí môi trường. Tuy nhiên, nền nông nghiệp này không cạnh tranh với nông nghiệp ở các vùng nông thôn, mà tập trung chủ yếu vào những hoạt động có lợi thế, nhất là cung cấp nông sản cho cư dân thành phố.
Là nền sản xuất nông nghiệp đa chức năng, NNĐT giữ vai trò tạo cảnh quan đô thị và cải thiện sức khỏe cộng đồng; góp phần cung ứng LTTP tươi sống tại chỗ cho các đô thị. NNĐT có khả năng giải quyết được các vấn đề khó khăn của cư dân thành thị và đặc biệt đó là giải pháp khả thi cho đô thị thông minh, đóng góp vào những nỗ lực xây dựng cơ sở hạ tầng xanh, tạo nguồn LTTP an toàn, sản xuất hoa cây cảnh và tạo đa dạng việc làm.
Những thành phố thực sự quan tâm đền phát triển NNĐT, có thể tự đáp ứng đến 100% nhu cầu nông sản tươi sống. Sử dụng tầng mái ở New York (Mỹ) có thể tăng gấp đôi không gian cần thiết để cung cấp rau xanh cho toàn Thành phố, trồng cây xanh ở thành phố có thể giảm được đáng kể lượng rác thải thực phẩm.
Là một hệ thống phức tạp, NNĐT bao gồm cốt lõi truyền thống liên quan đến sản xuất, chế biến, tiếp thị, phân phối và tiêu dùng nông sản. Sáng kiến quy hoạch và thiết kế hiện đại, đáp ứng yêu cầu của mô hình NNĐT phù hợp với thiết kế bền vững thường gắn với các quyết định chính sách để xây dựng các thành phố hiện đại. Tiếp cận thực phẩm giầu dinh dưỡng, là sự khác biệt trong những nỗ lực nhằm định vị sản xuất lương thực và chăn nuôi ở các thành phố.
Khu vực đô thị đang phải đối mặt với an ninh lương thực còn nhiều hạn chế, thường dựa vào thức ăn nhanh qua chế biến hoặc các cửa hàng tiện lợi có hàm lượng calo cao và ít chất dinh dưỡng, dễ dẫn đến bệnh tật liên quan đến chế độ ăn uống. Phong trào làm vườn ở các cộng đồng đã mở ra cho công chúng cơ hội và cung cấp không gian cho người dân trồng cây làm thực phẩm hoặc giải trí trong các đô thị.
Trồng cây lâu năm đã ảnh hưởng to lớn trong thời kỳ phục hưng của nông nghiệp. Những năm 1960, nhiều khu vườn cộng đồng đã được xây dựng, những trang trại nông nghiệp đầu tiên được thành lập vào năm 1972 ở thành phố Luân Đôn (nước Anh) đã kết hợp chăn nuôi động vật với không gian làm vườn, tạo sự bổ sung lẫn nhau. Ở Úc, nhiều trang trại thành phố đã tồn tại nhiều năm trong lòng các đô thị. Tại Melbourne, trang trại Collingwood thành lập năm 1979 trên Khu Di sản Abbotsford Precinct (APHF) ra đời vào năm 1838, liên tục là những trang trại thành phố lâu đời nhất của bang Victoria.
NNĐT phù hợp với Hà Nội là ngành kinh tế tổng hợp, bao gồm cả hoạt động sản xuất, chế biến và cung ứng dịch vụ về rau, hoa, quả, thảm xanh thực vật, cây cảnh, cây trang trí, cây dược liệu, cây trồng nông nghiệp và sinh vật hữu ích khác; những trang trại này dùng phương pháp canh tác hữu cơ, công nghệ chính xác và giải pháp kỹ thuật truyền thống kết hợp với hiện đại.
NNĐT cung cấp LTTP tươi sống, tạo không gian xanh, giảm tiếng ồn và hiệu ứng nhà kính; đồng thời kiến tạo cảnh quan kiến trúc môi trường, không gian thư giãn, chăm sóc sức khỏe, góp phần nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho người dân đô thị.
Trong quy hoạch sử dụng đất có khái niệm không gian NNĐT. Đây là nơi chứa đựng mọi hoạt động nông nghiệp, là một không gian đa chức năng. Không gian đô thị bao gồm các yếu tố của NNĐT, có thể hiểu đó là không gian bao gồm cả vật thể kiến trúc, cây xanh, mặt nước và hoạt động chăn nuôi trồng trọt thích hợp trong môi trường đô thị và có tác động trực tiếp đến cảnh quan. Không gian NNĐT bao gồm cảnh quan đô thị truyền thống và đô thị sản xuất phái sinh. Hầu hết lý thuyết phát triển đô thị đều nhìn nhận NNĐT với vai trò ngày càng quan trọng trong quy hoạch xây dựng phát triển bền vững, theo hướng sinh thái, giảm thiểu ô nhiễm, cải thiện môi trường, gia tăng cảnh quan và tăng hiệu quả sử dụng đất đai đô thị.
So với nông nghiệp truyền thống, NNĐT có lợi thế cạnh tranh, nhất là có thể cung cấp cho thị trường những sản phẩm bao gồm cả phí môi trường với chi phí rẻ. Tuy nhiên, cần chú ý là NNĐT không cạnh tranh với nông nghiệp ở các vùng nông thôn và thường tập trung vào những hoạt động có lợi, nhất là cung cấp sản phẩm tươi sống, mau bị hư hỏng và không cần phải qua công nghệ chế biến, bảo quản lâu dài. Có thể thấy, NNĐT là một nền sản xuất nghiệp đa chức năng, đóng vai trò chính về cung ứng lương thực thực phẩm, đảm bảo môi trường bền vững, tạo nhiều việc làm để nâng cao thu nhập cho người dân nghèo đô thị.
NNĐT thông minh là một xu hướng mới nhằm đảm bảo an toàn LTTP cho đô thị. Ở nước ta, tuy đã xuất hiện nông nghiệp thông minh, nhưng quy mô nhỏ và dường như chưa có mô hình hoàn chỉnh. Việc áp dụng NNĐT thông minh còn nhiều khó khăn, thách thức, như: thiếu các nghiên cứu về các mô hình quản trị số để thiết kế những nền tảng phần mềm phù hợp với nhu cầu của các chuỗi giá trị; cơ sở dữ liệu số phục vụ nông nghiệp còn tản mạn, chưa được thiết kế và số hoá đồng bộ.
Khả năng cung ứng công nghệ cho nông nghiệp thông minh còn nhiều hạn chế. Các công ty vừa và nhỏ thường sử dụng các giải pháp riêng lẻ, thiếu sự kết nối trong điều kiện thị trường máy móc, thiết bị nông nghiệp chưa phát triển, tỷ lệ tự động hóa chưa cao và nhất là sản phẩm nông nghiệp thông minh chưa đồng bộ hoặc khó giao tiếp. Ngoài ra, suất đầu tư cho nông nghiệp công nghệ cao và nông nghiệp thông minh lớn hơn nhiều so với nông nghiệp truyền thống, đa số hộ gia đình không đủ điều kiện đầu tư.
Công tác nghiên cứu ứng dụng, chuyển giao khoa học kỹ thuật chưa theo kịp thực tiễn yêu cầu sản xuất; các tiêu chí về nông nghiệp thông minh cùng với các quy chuẩn, tiêu chuẩn, quy trình sản xuất cho từng đối tượng cây trồng, vật nuôi chưa hoàn thiện. Mặt khác, nguồn ngân sách nhà nước và vốn tín dụng đầu tư vào phát triển nông nghiệp thông minh còn hạn chế; chính sách hỗ trợ chưa được xây dựng và ban hành kịp thời; chưa có ưu đãi về tín dụng và đất đai cho phát triển loại hình nông nghiệp này.
4. Phát triển Nông nghiệp đô thị và việc vận dụng trên địa bàn Hà Nội
Có nhiều hình thức phát triển NNĐT, nó bao gồm cả canh tác trên mặt đất, trên mái nhà, thủy canh, nhà kính và những công nghệ khác. NNĐT có tiềm năng sản xuất lương thực, đặc biệt là những loại sản phẩm dễ hỏng và có giá trị cao. Ngoài ra, ngày càng có nhiều mối quan tâm đến canh tác quy mô thương mại loại cây trồng phi lương thực như trồng hoa hoặc tận dụng không gian trồng cây trên các bức tường thành phố. Ở nhiều nơi, NNĐT đã đóng vai trò then chốt đối với an ninh lương thực và được phát triển mạnh trong những thành phố thông minh. Đây là vấn đề quan hệ mật thiết với kinh tế, văn hóa, khoa học và công nghệ.
So với những hoạt động nông nghiệp khác, NNĐT sử dụng nhiều vốn, cơ sở vật chất, công nghệ và lao động; được cho là nền nông nghiệp công nghiệp hóa, có thể tận dụng thị trường để phát triển mạng lưới thông tin và giao thông, thúc đẩy sản xuất nông nghiệp và thương mại liên vùng. NNĐT phát triển bền vững cần theo cách tiếp cận liên ngành. Đây là cách làm quan trọng để đạt được 17 mục tiêu phát triển bền vững vào năm 2030 của Liên Hợp Quốc.
Đô thị lớn có nhiều rủi ro về an ninh LTTP, do thiếu kết nối cung cầu. Hệ thống LTTP hoạt động hiệu quả là cấu phần quan trọng của nền kinh tế, nó phải trở thành khát vọng rõ ràng của các thành phố năng động và là nội dung chính trong quy hoạch và chính sách đô thị, cần được các cấp lãnh đạo đặc biệt quan tâm.
Ở nhiều quốc gia, LTTP là một trong những chính sách và quản trị đô thị quan trọng. Trên toàn châu Á, chính sách lương thực từ lâu được coi là nhiệm vụ của các bộ về nông nghiệp. Trên thực tế, ngành nông nghiệp đã tập trung vào tăng cường sản xuất nông nghiệp, thúc đẩy phát triển kinh tế nông thôn và thực hiện mục tiêu an ninh lương thực quốc gia. Nhìn chung, khu vực đô thị chưa được đề cập nhiều trong các quy hoạch nông nghiệp hay tài nguyên thiên nhiên.
Phát triển tổ chức an toàn thực phẩm toàn cầu cho thấy, hệ thống LTTP hiện được nhiều cơ quan khác nhau giải quyết, nhưng có ít sự phối hợp. Bài học kinh nghiệm rút ra trong quản lý là, các nhà quy hoạch và hoạch định chính sách đô thị do phải giải quyết quá nhiều vấn đề trong các thành phố phát triển nhanh; Nhiều thành phố đang phải đối mặt với hàng loạt thách thức liên quan đến sự phát triển không theo quy hoạch, bao gồm cả tắc nghẽn giao thông, ô nhiễm không khí, tích tụ chất thải rắn, cơ sở hạ tầng vật chất kém phát triển, cũng như yếu kém về y tế, giáo dục và các dịch vụ.
Theo báo cáo của Sở Nông nghiệp và phát triển nông thôn, Hà Nội có 11 quy hoạch liên quan đến nông nghiệp, nhưng phần lớn đã bị biến đổi và phải điều chỉnh do tốc độ phát triển đô thị hoá quá nhanh, đã phá vỡ không gian nông nghiệp để nhường chỗ cho các khu nhà ở và hạ tầng đô thị. Đây là thách thức mà cư dân đã lên tiếng yêu cầu cần có giải pháp và sự phối hợp liên ngành.
Để vượt qua được các khó khăn, thách thức nhằm đạt được các lợi ích to lớn do chuyển đổi số và nông nghiệp thông minh, các nhà phấn tích cho rằng, cần triển khai làm tốt một số giải pháp dưới đây:
Khuyến khích phát triển nông nghiệp thông minh trên cơ sở nghiên cứu thị trường và nhu cầu của cư dân đô thị; Chính phủ cần ban hành những chính sách phù hợp với thực tiễn sản xuất, có tính khả thi nhằm huy động tốt nguồn lực để thực hiện cách mạng nông nghiệp thông minh; Đầu tư công nghệ phù hợp với đô thị nhằm tạo sinh khí mới với những mô hình nông nghiệp thông minh, sản phẩm nông sản độc đáo, an toàn và có khả năng cạnh tranh cao;
Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn cần phối hợp chặt chẽ với Bộ Thông tin và Truyền thông để xây dựng kiến trúc tổng thể của Chính phủ số và kinh tế số trong ngành nông nghiệp, xác định rõ nhu cầu dịch vụ chức năng của các hộ nông dân nhỏ, trang trại, hợp tác xã, doanh nghiệp nông nghiệp để thiết kế nền tảng số tập trung và khung cơ sở dữ liệu số cho nông nghiệp đồng bộ giữa các nhóm ngành theo cơ cấu tổ chức thống nhất từ trung ương đến các địa phương.
Cần có đầu mối tập trung để thiết kế cấu trúc hệ thống công nghệ thông tin, tránh hiện tượng tự phát khi chưa có các tiêu chuẩn kết nối chung.
Tăng cường đào tạo nguồn nhân lực, đặc biệt là nhân lực chất lượng cao để chủ động trong quá trình tiếp cận nông nghiệp thông minh.
Triển khai xây dựng, thu thập cơ sở dữ liệu trực tuyến về nông nghiệp theo hướng tích hợp và đồng bộ.
Khuyến khích doanh nghiệp công nghệ số đầu tư phục vụ nông nghiệp. Theo đó, cần chú ý đến công nghệ tự động hoá trong sản xuất nông nghiệp phù hợp với hộ nông dân nhỏ, gắn với nền tảng truy xuất nguồn gốc là những lĩnh vực cần ưu tiên để có thể ứng dụng ngay.
Thúc đẩy nghiên cứu và đổi mới sáng tạo về nông nghiệp thông minh, đồng thời mở rộng hợp tác quốc tế để tiếp thu các công nghệ và, phương thức quản trị số phù hợp nhằm tiết kiệm thời gian, tăng năng suất lao động, mang lại hiệu quả cao hơn./.
Tài liệu tham khảo
1. Đặng Hiếu (2011) Giải pháp nào để phát triển nông nghiệp đô thị thông minh
https://dangcongsan.vn/cung-ban-luan/giai-phap-nao-de-phat-trien-nong-nghiep-do-thi-thong-minh-596135.html, 06/11/2021 20:13 (GMT+7)
Ban Quản lý Khu nông nghiệp công nghệ cao Thành phố Hồ Chí Minh tháng 5 2019
3. Hanoimoi.vn (2023) Xây dựng nền nông nghiệp đô thị xứng tầm
https://hanoimoi.vn/xay-dung-nen-nong-nghiep-do-thi-xung-tam-436938.html12/04/2023
4. Lê Thành Ý (2023) Nông nghiệp đô thị xanh trong xu thế toàn cầu và ở Việt Nam vấn đề rút ra từ thưc tiễn miền Đông Nam bộ Kỷ yếu Hội thảo Khoa học Quốc tế Đâi học Bình Dương 4. 2023
5. Lê Thành Ý (2023) Nông nghiệp đô thị Hà Nội đôi nét lạm bàn
HTTPS://NONGTHONVAPHATTRIEN.VN/NONG-NGHIEP-DO-THI-HA-NOI-DOI-NET-LAM-BAN-A4936.HTML26/09/2023