NGÀY 14/4/1972
Về tới Hoài Châu, gặp dân, lại được sống trong không khí tấn công sôi nổi và trong tình thương yêu sâu sắc. Chốt Gò Vàng đã bị diệt. Chốt Liễu An đã tháo chạy. Bởi vậy, chúng tôi xuống núi rất sớm. Nghe tiếng súng nổ ròn ở phía đường cái - du kích đang đánh bọn địch rút chạy. Đồng bào thể hiện niềm phấn khởi ra mặt, cười nói hể hả. Tuy nhiên, cán bộ thì đang lo sốt vó. Thế là để xổng mất một chốt địch rồi! Nếu cứ để tiếp tục như vậy, sau này sẽ khó khăn cho ta, nhiệm vụ khởi nghĩa của địa phương không hoàn thành. Anh Đức chạy xuôi chạy ngược, đôi khi phải hò hét nữa, để đốc thúc công việc.
Khuya, xuống Tam Quan Bắc một cách dễ dàng.
NGÀY 15/4/1972
Đi tìm gặp bộ phận tiền phương của Huyện uỷ. Đang đi thì thấy từ phía thị trấn Tam Quan bùng lên một chớp lửa đỏ đậm và một tiếng nổ lớn. Tiếp đó, hàng loạt tiếng nổ hoà theo rộn rã: súng liên thanh, lựu đạn, B40... Lúc ấy là 1 giờ 10 phút. Địch hốt hoảng bắn đèn sáng rực.
Cùng với tiếng súng tiến công của quân Giải phóng, khắp nơi vang lên tiếng trống mõ, thanh la, thùng thiếc thanh viện của quần chúng.
Tiếng nổ vẫn rộn vang. Vào khoảng phút thứ 15, 20, một tiếng nổ lớn lại bùng lên, một khối lửa đỏ đậm phụt lên cao rồi khói đen, khói vàng cuồn cuộn bốc lên. Bầu trời đang được pháo sáng hắt vào tạo thành mầu trắng xanh bỗng mờ đi, chuyển thành mầu nâu sẫm. Khói bao phủ cả bầu trời thị trấn Tam Quan.
Ở một nhà, tôi thấy một bà già người nhỏ, ốm, cầm ra một miếng tôn lớn. Bà kêu: “Thanh viện đi chớ! Vả, sao không đánh đi?”. Bà dùng cây đập rất mạnh vào tấm tôn. Có lúc mỏi quá, bà đặt xuống nghỉ rồi lại đánh. Một ông già đem cái chuông đồng ra ngõ đánh kêu keng keng. Mọi người nói “Đem đến gần điểm đánh cho nó nghe rõ, nó sợ!” và xách dụng cụ ra ngõ đánh.
Khoảng 25 phút, trận địa im đi một lúc rồi lại rộ lên. Tiếng nổ nổi bật là tiếng mìn hoặc B40 - nổ rất to, bùng lên những khối lửa lớn. Rồi đến tiếng AK nổ đanh, gọn mà ấm. Có những tiếng đại liên xổ từng tràng dài.
Khoảng 4 giờ sáng thì cơ bản im tiếng súng. Địch phản ứng pháo rất dữ. Có 2 chiếc Đa cô ta bay cao tuốt trên trời, bật đèn đỏ lập loè, xổ ra hàng dây đạn lửa đỏ rực, rống lên ồng ộc.
Chúng tôi ra Trường Xuân để giảm bớt số người ở phía trước, đề phòng phi pháo. Trời gần sáng rồi. Vội vàng leo lên xuồng chống đi. Nước cạn quá, phải lội xuống đẩy. Lúc sâu lại leo lên chống. Người ướt mèm. Hừng đông rồi. Con sông nằm trong tầm mắt của 2 chốt địch. Súng nổ rộ khắp nơi. Chúng tôi cột thuyền, chạy lên bờ, vượt một bãi đất nữa rồi chạy dọc một mép sông. Nghe bên bờ bên kia có tiếng gọi: “Qua đây!”. Chúng tôi chạy qua. Đồng bào đã chờ sẵn. Giữa sông có một chiếc thuyền nhỏ đặt một mô hình khẩu súng lớn - có lẽ để nghi binh địch.
Vào xóm Xuân Lạc. Đồng bào đang chuẩn bị nổi dậy. Một phụ nữ vác một cái giáo dài, kêu: “Mau mau đi chứ!”. Có những tiếng gọi nhau, tiếng chỉ thị tập trung đại đội, trung đội... Tất cả sắp xếp vào đội ngũ để có lệnh là tiến tới vây đồn địch.
Chiều, tôi làm việc với các đồng chí trong bộ phận tiền phương của Huyện uỷ, truyền đạt tinh thần chỉ đạo của Ban chỉ huy mặt trận tiền phương và nắm tình hình chung trong toàn huyện. Có những tin tức từ thị trấn Tam Quan báo về: Nhiều khu địch ở trong thị trấn đã bị đánh nát. Ta đánh tiêu diệt toàn bộ chi khu, đánh thiệt hại nặng quận lỵ. Diệt gọn 1 đại đội pháo Cộng hòa của tiểu đoàn 30 gồm 6 khẩu pháo. Diệt 1 đại đội Bảo an giữ chi khu. Tên thiếu tá chi khu trưởng, 2 tên cố vấn Mỹ và tên phó quận trưởng bị chết. 2 kho đạn, 1 kho xăng bị phá huỷ. Nhiều tên Bảo an khác bị diệt. Đồng bào xôn xao bàn tán, hả hê vui mừng trước thắng lợi của ta. Những bà mẹ, cô gái kể tội bọn ác ôn trong thị trấn cho chúng tôi nghe: đánh đập, lột quần áo, giam giữ, hạch sách...
NGÀY 16/4/1972
Ở tại thôn An Thái. Mới hôm qua, đồng bào chuyển thương binh tới đây chăm sóc để chuyển về tuyến sau. Ai cũng thấy rõ sức mạnh của ta, thấy sự suy yếu của địch. Bà con so sánh sự phản ứng của chúng bây giờ đã yếu hơn trước nhiều: “Trước kia mà đánh thế thì chúng vãi bom vãi đạn vào đây. Bây giờ thì chỉ có ít quả pháo”. “Trước kia mà đánh thế thì trực thăng nó chụp quân liền. Bây giờ cả ngày không có một chiếc!”.
Cô Canh về báo: du kích, đồng bào đã vây chặt chốt Tân Thành, Cống Thạnh.
Đêm 15 rạng 16-4, ta cũng đánh vào khu Nhà thờ Dốc (trụ sở của Trung đoàn bộ Trung đoàn nguỵ số 40). Sáng nay địch còn bắn pháo về phía đó, có lẽ ta còn làm chủ trận địa. Đường số một đã bị cắt đứt.
NGÀY 17/4/1972
Bộ đội đóng trong thôn. Anh em đều trẻ, khoẻ, chắc nịch. Sau khi đánh Tam Quan, anh em lại về phối hợp với du kích đi đánh bọn địch trài (nống ra xung quanh), đánh những đồn lẻ. Ngày nào địch cũng chết. Hôm kia, du kích bắn B40 vào chốt Công Thạnh, sập một số lô cốt, chết 6 tên. Hôm qua, du kích bắn cối vào Trung đội Dân vệ số 4 (người ta gọi là Trung đội thằng Trà, thằng ác ôn khét tiếng), chết và bị thương 6 tên. Các chốt khác cũng bị du kích ém, bia tỉa suốt. Địch rất hoảng sợ, xoay xở lung tung mong thoát chết. Chúng ra ngoài rào hoặc rúc trong bờ trong bụi mà trốn. Chúng kêu pháo, cối bắn lung tung. Sau nhiều năm im ắng, bây giờ pháo, cối lại nổ giữa thôn xóm. Một quả cối nổ trước sân bà Tịnh làm Bích bị thương.
Ngày ngày, đồng bào vẫn đi vây đồn bốt. Hai ngày đầu khí thế tốt, địch xoa dịu. Ở Mỹ Lộc, đồng bào đã giật lựu đạn của một tên lính. Nhưng hôm nay thì chúng quay ra đàn áp. Hai người đã bị thương vì chúng bắn. Nhiều người bị chúng đánh.
Ở miền Bắc, giặc Mỹ cũng leo thang bằng không quân, đánh tới Hà Nội, Hải Phòng, bị ta bắn rơi 12 chiếc, có một B52.
Gần đến ngày chết, kẻ địch dãy dụa thật điên cuồng. Nhưng chúng ta quyết làm quyết liệt hơn nữa. Đồng bào nói: “Cứ đánh tới đi, đừng dừng lại, đừng để chúng quay lại giày xéo bà con!”.
Tôi gặp gỡ bà con, du kích, bộ đội, lấy thêm tài liệu, viết một bài ghi nhanh như sau:
TAM QUAN, NHỮNG NGÀY ĐẦU TẤN CÔNG VÀ NỔI DẬY
Đêm nay, đồng bào Tam Quan không ngủ. Mọi người ùa ra các sân nhà, leo lên các nóc hầm vui sướng nhìn về phía thị trấn đang rung chuyển trước đòn tiến công của quân Giải phóng. Hàng loạt tiếng nổ vang lên ròn rã như pháo tết. Một tiếng nổ lớn vang lên giữa thị trấn làm cho những mái nhà tôn khẽ rung lên, kêu ken két. Một cột lửa bốc cao, cuộn khói mù mịt, chuyển bầu trời thị trấn từ mầu sáng bạc qua mầu nâu sẫm. Một người đàn ông kêu lên:
- Rồi đó! Kho xăng, kho đạn nổ tung rồi đó!
Mọi người nhón gót cao lên như muốn nhìn tận mắt sự đền tội của kẻ thù. Trong niềm vui đột ngột, mọi người quên bẵng đi công việc mà mình phải làm. Lúc ấy, một bà má bỗng kêu lên:
- Ủa, im khô vầy sao? Thanh viện đi chớ!
Bà chạy vô nhà, xách ra một cái kẻng làm bằng mảnh bom, dang tay dùi gõ mạnh. Tiếng kim khí vang lên lanh lảnh. Những người khác cũng vội vàng xách thùng thiếc, chuông, trống ra gõ liên hồi. Một ông già xách cái chuông đồng vừa gõ vang vừa nói:
- Xịch ra ngoài này, gần chốt điểm, gõ cho bọn nó nghe rõ, bọn nó càng hoảng.
Mọi người đi theo ông ra sát rào, tay vẫn gõ mạnh những dụng cụ gây tiếng động. Bọn địch trong các chốt điểm quanh đó hoảng sợ bắn như vãi đạn ra tứ phía. Nhưng bao trùm lên hết thảy, rộn rã khắp xóm làng, vẫn là tiếng trống, mõ, thanh la của đồng bào, tiếng động báo hiệu những ngày nổi dậy bắt đầu.
Ở Tam Quan, chưa bao giờ bình minh lại đến bằng cái huyên náo, sôi nổi, vui hoạt như những ngày giữa tháng 4 này:
- 1 giờ 10 phút, quân Giải phóng tiến đánh vào tận hang ổ địch trong thị trấn.
- 1 giờ 20 phút, toàn dân thanh viện.
- Từ đó đến sáng, du kích bắn bia tỉa và bắn cả đạn cối, đạn B40 tiêu diệt bọn Bảo an.
- 5 giờ sáng, các đội quân khởi nghĩa sẵn sàng lên đường bao vây đồn bốt địch.
Khi chúng tôi đến thôn Công Thạnh thì gặp mấy du kích xách súng chạy tới. Một du kích trẻ măng, dáng người chắc nịch, vác khẩu B40, vừa cười vừa khoe:
- Quả B.40 của em phá sập 1 lô cốt rồi!
Anh kéo bạn chạy tới chỗ Tì - Chính trị viên xã đội. Tì bị thương ở tay trái vào những phút đầu tiên của giờ nổ súng. Nhưng anh nhất định không chịu về tuyến sau. Tì gặp mấy du kích, truyền lệnh:
- Ngay bây giờ, các đồng chí áp sát các mục tiêu đã được phân công. Đúng 5 giờ, bắn 5 quả cối 60 và 15 phút sau bắn 2 quả B.40 vào chốt Công Thạnh!
Chúng tôi lội qua con sông nước mặn, vào thôn Trường Xuân. Lúc này, trong thôn chỉ có một số trẻ em, người già và thấp thoáng bóng mấy phụ nữ chạy qua chạy lại. Hầu hết đồng bào ở đây đã tập trung về nơi quy định để thực hiện mệnh lệnh khởi nghĩa. Một phụ nữ trạc ngoài 30 tuổi vác một cây đòn xóc nhọn hoắt chạy theo một ông già, nói gấp gáp:
- Bác về kiểm tra lại Trung đội của bác xem còn thiếu ai thì kêu gấp tới cho kịp.
Chúng tôi nhìn theo hướng chị chạy, thấy một đoàn người vác giáo, mác, gậy gộc đang đổ về phía Nam...
Chúng tôi trở lại nơi làm việc của Ban Khởi nghĩa xã. Tại đây, lúc nào cũng bận tíu tít công việc. Mọi người thắp đèn làm việc cả đêm, mắt trũng sâu xuống nhưng vẫn phấn chấn lạ thường. Mới qua ba ngày tấn công và nổi dậy, tình hình đã biến chuyển khác thường. Nổi bật lên là hoạt động của du kích xã, thôn. Lúc này, lối tính nhẩm số địch do du kích diệt trở nên bất lực, vì nó luôn luôn tăng vọt. Ngay cả việc ghi vào sổ cũng không kịp, chỉ ghi được mấy trận chính:
- Trưa 15/4, du kích diệt 7 tên Bảo an tại chốt Công Thạnh.
- Ngày 16/4, du kích vây chặt đồn An Thái, đồng thời đánh tan tác trung đội Dân vệ số 4 khét tiếng gian ác. Cùng ngày, du kích phối hợp với bộ đội đánh và làm chủ phố Tân Thành, làm chủ vùng 2, vùng 3 và nhiều thôn khác.
- Chiều 16/4, du kích bắn cối 60 diệt 6 tên thuộc Trung đội Dân vệ số 4.
Bọn địch quay cuồng chống đỡ, nháo nhào trốn chạy. Lúc thì chúng chui vào lô cốt bắn vãi đạn ra tứ phía. Lúc thì chúng bỏ đồn, chui rúc trong bờ bụi để tránh đòn mật tập khủng khiếp của du kích. Nhưng, Ban Lãnh đạo khởi nghĩa đã kịp thời ra những mệnh lệnh trừng trị chúng:
- Trung đội số 4 đang dã ngoại. Điều cối 60 tới dập khi chúng qua đồng.
- Đêm nay, lũ Bảo an chốt Thiện Chánh cụm trong lô cốt, cho B40 bắn vào lô cốt trung tâm.
- Lũ Bảo an đóng ở cầu đã bỏ chốt xuống trốn dưới chân cầu. Cho một tổ vòng vào hướng Nam bắn lên.
- Tạm dừng việc bắn vào chốt Thạnh Mỹ, đưa đồng bào tới vây, có khả năng bức chúng hàng.
Anh Thưa, Trưởng ban Khởi nghĩa xã, vừa làm việc xong với cán bộ các thôn thì anh Bình, chỉ huy trưởng đơn vị X quân giải phóng Bình Định, đến nói:
- Anh cho dân công đi chuyển đạn lớn về.
Bình nhìn đồng hồ lo lắng:
- Mà lúc này khuya rồi, sợ nước lớn.
Thưa cười:
- Nước lớn đã có thuyền, lo gì. Mà các anh cần bao nhiêu dân công nào?
Binh đứng dậy:
- Để tôi cho bộ đội cùng đi.
Thưa níu lại:
- Khoan đã, cho anh em ăn cháo vịt rồi hãy đi. Cháo, đồng bào ủng hộ đó!
Công việc của một ngày tưởng đã hết, bỗng có người đến báo:
- Báo cáo anh có 20 dân công phía trong ra.
Thưa nhíu mày:
- Chà, dân công tải thương, tải đạn đều có đủ cả rồi. Hay là cho số này về?
Nghĩ một lát, anh lại nói:
- Đưa 20 dân công mới đến ra đào hào tác chiến tại thôn Công Thạnh.
Lát sau, tiếng cuốc đã vang lên thình thịch. Xen vào đó là tiếng những bước chân rậm rịch, hối hả. Ở một xóm nào đó, tiếng gà đã gáy rộn rã. Nhưng tiếng gà không còn tác dụng báo thức nữa, bởi vì mọi người không ngủ. Ở đây, ngày và đêm đã được nối liền bằng những hoạt động tấn công và nổi dậy sôi nổi của con người.
NGÀY 18/4/1972
Tôi về lại Hoài Châu. Tại các thôn An Quý, Liễu An, Tuy An, ta đã làm chủ vững, ở suốt ngày. Ngày hôm nay, ta đưa gia đình binh sĩ lên đồn Hy Thế đấu tranh. Mấy ngày nay, đồng bào vẫn kéo lên vây đồn bốt địch. Hôm vây chốt Hội An, có tới 6.000 người. Hôm vây chốt Hy Thế, đồng bào đã xông vào giật súng địch nhưng chưa được. Địch bắn chết 1, bị thương 2 người. Đồng bào kéo lên hỗ trợ cho Hy Thế, bọn Bình Đê bắn qua làm chết 2 phụ nữ. Hôm nay, đồng bào đưa xác chết lên Bình Đê đấu tranh.
Lúa ngoài đồng đang chín vàng. Một số đồng bào tạm nghỉ đấu tranh để đi gặt, đập. Trên mấy thửa ruộng, tiếng đập lúa đã vang lên thì thụp.
NGÀY 19/4/1972
Du kích bắn M.79 trúng vào một kho đạn của chốt Tân An. Bọn này vội bỏ chạy xuống chốt Hội An.
Hồi trưa, địch dùng ô tô chở quân và tre, cọc sắt xuống lăm le chốt lại Liễu An. Du kích bắn ra, chúng vội bỏ tre, cọc, lên xe chạy một mạch. Chúng gọi pháo bắn tới làm bị thương hai em nhỏ, chết một con bò.
NGÀY 20/4/1972
Gần sáng, đang ngủ tại An Quý thì nghe có những tiếng nổ lớn phía đồn địch. Choàng dậy nhìn về phía ấy. Những chớp lửa vẫn liên tiếp loé lên kèm theo những tiếng nổ vang. Không thấy tiếng súng nhỏ đáp lại. Nhưng khoảng 10 phút sau, nghe những tiếng súng của địch phản ứng rất dữ. Cây đại liên nổ hàng tràng dài. Tiếng M.79 nổ “Pốc...Đùng! Pốc... Đùng!”. Pháo từ Đồi 10, Nhà thờ Dốc bắn tới nổ chát chúa. Thỉnh thoảng lắm mới nghe tiếng lựu đạn.
Khoảng hơn một tiếng sau, nghe tiếng gọi người đi cáng thương. Ca thương đầu tiên đã về: đó là Đức. Gần sáng bạch rồi, vội chuyển về tuyến sau. Đức được đưa về trạm sơ phẫu. Đức nằm trong võng, đắp một tấm dù mỏng, người, mặt bôi nhọ nồi đen thui. Hai vết thương ở bên sườn và đùi còn chảy máu. Cô y tá rửa vết thương, Đức kêu:
- Nóng quá!
- Không nóng đâu, rát đấy!
- Không, nóng quá, rát tôi chịu được!
Đức cắn răng nằm im cho cô y tá rửa.
Lát sau, một cáng nữa về: Tài. Nghe có những tiếng xôn xao: “Chết rồi, chết rồi”. Có một người gọi: “Chết thì để lại cấp táng, đừng khiêng đi”. Tài chưa chết, chỉ lịm đi vì mệt quá - Tài đã bò từ đồn địch ra tới nhà cô Đượm - đoạn đường dài khoảng 1 km.
Chờ mãi vẫn không còn người nào về nữa. 5 đồng chí kia đã hy sinh!
Được tin địch khiêng xác 5 du kích lên Đồi 10. Bọn địch thường lấy xác anh em ta, bắt gia đình chuộc 5 - 7.000 đồng mới cho đem về chôn. Ban Binh vận xã cho người đi tìm cách đưa xác 5 anh em về. Xế chiều thì đã khiêng được về hết.
Lòng quặn đau khi nhìn những xác đồng chí mình đầy vết đạn, loang lổ máu. Thảo - xã đội trưởng - bị một viên đạn xuyên vào gò má bên phải. Mới cách đây ít lâu thôi, Thảo còn ngồi kể cho tôi nghe về chiến công của đội du kích xã tiêu diệt chốt An Quý, chốt cầu 99.
Đứng quanh xác đồng chí, những cô du kích khóc nức nở. Ai mà cầm lòng cho đậu khi phải vĩnh biệt những người đồng chí từng sát cánh chiến đấu với mình, từng chung vui, chung lo, nhường cơm xẻ áo cho nhau? Tôi cũng vậy. Tuy nhiên, tôi không khóc - tôi chưa hề khóc trước một cái tang nào, mặc dù những lúc ấy tôi thấy tim mình đau nhói, lòng mình quặn thắt. Có điều, tôi suy nghĩ, suy nghĩ triền miên. Suy nghĩ sâu nặng về cái sống và cái chết, về tình đồng chí, về công việc của mình. Đã nhiều lần tôi đi thẳng tới những nơi mà cái chết đang rình mò, lòng vẫn thanh thản và tự đặt cho mình 3 cách xử lý: một là, diệt địch để sống, hai là chạy thoát, ba là chiến đấu đến hơi thở cuối cùng.
Những người du kích đã hy sinh, nhưng quê hương còn ghi nhớ mãi chiến công của họ. Đêm ấy, họ không có B.40 vì cho xã bạn mượn - nên không diệt được lô cốt đại liên. Tuy nhiên, họ đã diệt được 6 lô cốt với 2/3 số địch trong Trung đội Bảo an đóng ở đây.
Tình hình vẫn phát triển rất thuận lợi. Ngày 19-4 quân ta đã giải phóng hoàn toàn huyện Hoài Ân. Ở ba xã phía Tây Bắc Hoài Nhơn này, địch rút chạy khỏi hàng loạt chốt, dồn xuống phía Dông.
Du kích An Quý kết hợp với du kích xã vẫn liên tục bao vây, bia tỉa địch ở Trường Cơ bản (chốt An Quý). Bọn địch đã bổ sung một số quân về đây, đang xây lại công sự. Bốn phát M.79 của du kích bia vào diệt được 2 tên địch. Chúng kêu pháo dập tới liên hồi. Chúng tôi nhìn thấy một ngôi nhà tôn tung lên rồi tan biến đi trong khói bụi. Thiệt dẫn mấy cậu du kích chạy về, thở hào hển rồi xây qua cười đùa ầm ĩ. Các cậu đua nhau kể lại cái nháo nhác của kẻ thù khi chúng bị bắn tỉa.
THƯ GIA ĐÌNH
Ngày 20/4/1972
Long yêu qúy của me!
Hôm nay được tin anh San vào chỗ con, cả nhà viết thư thăm con, trừ có em Ngọc vắng nhà và em Việt đi bộ đội là không viết thôi. Thư trước bố gửi vào ngoài tết không biết con đã nhận được chưa, hôm nay mẹ gửi vào cho con 1 ảnh của mẹ và 4 em vì hôm tết cơ quan mẹ có đến chúc tết gia đình B+C và chụp ảnh cho gia đình để làm kỷ niệm, vì chụp trong nhà nên không đẹp lắm nhưng cũng cần gửi cho con vì là kỷ niệm. Tết, cơ quan con có đem thiếp chúc tết và kẹo bánh đến gia đình ta, như thế là tết nhà ta được 3 cơ quan biếu quà, cơ quan bố con tức là ở Bộ và cơ quan mẹ, cơ quan con. Tết đến làm cho mẹ lại càng nhớ và thương con nhiều, tết năm nay mẹ cũng buồn vì lại vắng thêm em Việt nữa, tuy nó ở Sơn Tây nhưng cũng không được về.
Em Việt đi công an võ trang đã được 7 tháng rồi và khi em đi bố đã gửi thư và ảnh bộ đội của em vào cho con rồi chả biết con có nhận được không. Đến nay em mới vào khu 4 rồi, em mới đi được 1 tuần thôi, chưa biết em ở đâu vì từ Nghệ An đến Vĩnh Linh chưa biết chỗ nào chính xác cả, mẹ đang sốt rột chờ thư của em vì hôm em đi đã có máy bay bắn phá rồi
Con ạ, nhiều khi mẹ sốt ruột quá nhưng chả biết làm thế nào.
Bây giờ mẹ kể tình hình cụ thể của gia đình cho con nghe. Nhà ta bố mới được phân phối nhà ở khu Kim Liên, nhà mới xây, nhà C11, số nhà 5, rộng 21m2, có bếp, nhà tắm, hố xí chung 4 nhà 1, và cái mừng nhất là nhà ta đã chuyển cả hộ khẩu cả nhà lên khu Đống Đa và nhập vào Kim Liên rồi. Mẹ và các em cố gắng nuôi lợn năm vừa rồi cũng bán được hơn 300đ tiền lợn, nhưng nếu về Kim Liên thì lại không nuôi được nữa, mẹ chỉ định nuôi lợn khi nào con được ra là dù to nhỏ mẹ cũng thịt để liên hoan ăn mừng nhưng chả biết bao giờ mới đến ngày ấy con ạ. Nhà ta bây giờ cứ đến tối thứ bẩy và ngày chủ nhật là quây quần đông đủ, còn ngày thường chỉ có mẹ và Diệp - Lan - Thuỷ ở nhà thôi, còn em Phúc khoảng tháng 11 dương lịch này thì em về; mẹ gửi cả ảnh của người yêu của em vào cho con, tên nó là Thành, trông người cũng được trắng và cũng tháo vát nội trợ, khâu vá cũng khá, nó cũng ngoan. Hàng tháng nó vẫn đến nhà ta thường xuyên, thấy gì thì làm như con trong nhà thôi. Có lẽ em Phúc về cũng lo cho em cho yên trí, còn việc gia đình của anh Đức thì bây giờ chưa dứt khoát.
Đấy mẹ kể qua tình hình thế để con nắm được, kỳ này mẹ định gửi cho con 100đ, nhưng vì nhà mới có, phải sắm đồ đạc cần thiết và còn lo tiền cưới vợ cho anh và cho em Phúc cho nên mẹ gửi vào cho con 50đ, con tiêu tạm vả lại mẹ thấy con nói được tăng mức sinh hoạt nên mẹ cũng an tâm. Anh San bảo mẹ không mua bút nữa là vì anh San nói là anh có cái bút Kim Tinh để làm quà cho con, kỳ này mẹ không đổi được tiền mới nhưng anh San bảo cũng được vì vào đấy sẽ đổi tiền Miền Nam cho con.
Mẹ gửi thêm cả ảnh của Việt và của bố, em Việt trông ở ngoài khoẻ hơn trong ảnh.
Dạo này giặc Mỹ lại bắt đầu leo thang ra Miền Bắc, các cơ quan đang chuẩn bị sơ tán, mẹ chưa biết bao giờ đi sơ tán.
Vừa qua, bố mẹ và tất cả các em kéo cả về Ninh Bình, quê bố, nhưng về nhà quê Phát Diệm chứ không ở thị xã, về quê chỉ còn các bác con nhà bác Tứ và các cháu thôi, đông lắm và vui lắm. Như thế là 26 năm bố mẹ lại mới về quê, còn hè vừa rồi, bố mẹ và anh Đức lên Hà Giang, lên bà trẻ và nông trường chỗ cậu Hiếu, cụ nội vẫn khoẻ năm nay cụ 93 tuổi rồi, còn bà vẫn khoẻ. Nói chung là cả nhà vẫn khoẻ cả, cậu Hiếu đã có 3 em rồi. Cô Chung, nhà vẫn ở chỗ cũ, còn công tác thì cô đổi sang Bệnh viện E rồi, hôm nay mẹ vội quá không ra báo cho cô viết thư cho con được. Em Tiến đã về dưới này ở rồi và đã đi học lớp công nhân nguội rồi, nó to lớn lắm, cũng khám nghĩa vụ rồi, có lẽ cũng sắp đi bộ đội rồi.
Thôi mẹ viết cho con đã tương đối đầy đủ. Mẹ chỉ mong con khoẻ mạnh và giữ gìn sức khoẻ cho tốt để khi giải phóng miền Nam con được về sum họp gia đình, con cần phải cẩn thận, đừng chủ quan con ạ.
Con gửi ít thư về nhà quá làm mẹ lo lắm.
Thôi mẹ chúc con công tác tốt và cho mẹ gửi lời thăm tất cả anh em trong ấy.
Mẹ
Hạnh
Hà Nội ngày 20/4/1972
Long thân yêu của bố!
Lần trước, bố đã viết thư cho con khá dài, lần này nhân có anh San vào trong đó, bố lại viết vài dòng để con biết tin gia đình. Bố đã nghe báo con viết, đọc trên đài, và đăng trên báo Quân đội nhân dân, nhất là bài "Phá đồn"được phát thanh nhiều lần. Bố cũng biết tin con đi công tác ở Bình Định, chắc là để góp phần vào việc chuẩn bị cho thắng lợi "vĩ đại" hiện nay.
Ở ngoài này công cuộc xây dựng hậu phương lớn đạt được nhiều thành quả đáng mừng. Đời sống nhân dân được nâng cao hơn so với hồi con ở nhà. Vừa qua Đế quốc Mỹ lại oanh tạc Hà Nội, Hải Phòng, nhất là Hải Phòng. Điều này chỉ chứng tỏ Níc Xơn hoảng hốt làm liều.
Gia đình ta vẫn được bình yên. Bố mới được phân phối một phòng ở Kim Liên. Cả gia đình đều được chuyển hộ khẩu về Kim Liên (Nội thành Hà Nội).
Hiện nay gia đình vào tạm ở Mễ Trì, chỉ có Bố và anh Đức ở Kim Liên. ít ngày nữa, nếu tình hình yên hơn, mẹ và các em sẽ chuyển sau. Nếu con có dịp ra thăm gia đình, con sẽ đến khu Kim Liên.
Mẹ và các em tăng gia lợn liên tục. Anh Đức dịch thêm tài liệu và sách. Bố dịch và duyệt sách, viết bài cho một vài tập san. Thu hoạch gia đình khá hơn trước.
Thôi nhé, thư trước viết dài rồi. Chúc con mạnh khoẻ, lập nhiều thành tích mới.
Thân mến.
Bố.
Hà Nội, ngày 20 tháng 4 năm 1972
Anh Long kính mến.
Hôm nay, nhân lúc anh San bạn anh đến báo là anh ấy sắp đi vào trong chỗ anh nên em vội ngồi viết thư để hỏi thăm sức khoẻ của anh. Anh có khoẻ không, nếu khoẻ thì em cũng rất mừng.
Ở nhà, em và bố mẹ cùng anh chị vẫn khoẻ cả. Bây giờ em, chị Diệp và em Thuỷ đang chuẩn bị ôn thi để thi hết năm, nên cũng rất bận. Ở nhà mình vừa bán lứa lợn rồi anh ạ, mẹ lại mua tiếp một đôi nữa anh ạ, đôi này nuôi cũng rất chóng lớn. Mẹ bảo đôi này nuôi thật to để đợi anh về là mổ lợn ăn mừng đấy anh Long ạ. Tuần vừa rồi em cùng bố và em Thuỷ lên thăm anh Việt (ở Sơn Tây) vì anh Việt cũng sắp đi vào khu bốn để công tác. Thời gian rất gấp nên anh ấy cũng chả về nhà được. Anh Việt vẫn khoẻ và béo ra rất nhiều. Hôm nọ, tàu bay địch nó cũng đến Hà Nội anh Long ạ, nhưng cả gia đình vẫn bình yên, chúng em đang đào hầm đấy anh ạ. Thôi! Em tạm dừng bút ở đây vì thư đến đây đã dài.
Cuối cùng, em chúc anh cùng các bạn anh có sức khoẻ tốt, công tác tốt và em cũng xin hứa với anh là học tập giỏi, chăm cho đôi lợn thật to, béo để khi nào anh về thì mổ để ăn nhé!
Người em ngoan của anh.
Phạm Thuý Lan.
Hà Nội, ngày 20 tháng 4 năm 1972
Long thân mến!
Nhân có người bạn Long trở lại trong ấy, anh biên mấy dòng thăm Long. Hôm nay nhẽ ra anh không về nhà, nhưng tình hình khẩn trương, anh về qua nhà xem các em có đi sơ tán đâu không?
Nhà rất mong thư em. Mỗi lần được thư, cả nhà đều mừng, nhất là bố mẹ mừng vì em vẫn khoẻ mạnh và lại có nhiều cố gắng trong công tác, trong tu dưỡng, có tiến bộ đáng kể. Cả nhà vẫn khoẻ mạnh. Phúc thực tập ở Liên Xô đến khoảng cuối năm thì về. Việt đã nhập ngũ từ tháng 9/1971, đã qua 6 tháng luyện tập, vừa rồi vì tình hình khẩn trương nên đã được lệnh vào Thanh Hoá rồi, từ đó cũng chưa được tin tức gì.
Mấy ngày hôm nay giặc Mỹ bị thua đau ở trong Nam đã điên cuồng cho máy bay đánh phá miền Bắc và cả Hà Nội nữa. Đối với anh thì ngày 16/4 vừa qua là lần đầu anh được chứng kiến trận chiến đấu của ta đấy. Giặc Mỹ đã bị trừng trị đích đáng. Tình hình vẫn căng thẳng, tất cả đều chuẩn bị tinh thần, chuẩn bị sơ tán để quyết chiến. Tổ anh có 12 chị nữ thì 10 chị có con nhỏ, từ mai sẽ bắt đầu nghỉ việc đi sơ tán đấy. Tình hình gay go, nhưng thực ra mọi người không hề lo sợ mà lại có một niềm phấn khởi lớn, vì hành động điên cuồng của giặc Mỹ chỉ nói lên thất bại nặng nề của chúng, và sự chuẩn bị của ta, như vậy cũng nói lên rõ quyết tâm của ta hứa hẹn trước những thắng lợi rất lớn trong thời gian tới. Ngày chiến thắng sẽ chẳng còn xa, em lại trở về, cả gia đình lại đoàn tụ, ngày ấy sẽ vui biết mấy.
Thôi Long nhé, anh dừng bút ở đây. Chúc em công tác ngày càng kết quả, góp sức được nhiều vào thắng lợi chung. Anh em ta sẽ gặp lại nhau trong ngày hội chiến thắng.
Anh
Mạnh Đức.
NGÀY 21/4/1972
Đang đi trên một bãi đất trống rộng thì thấy một quả đạn khói do cối bắn đến nằm giữa đường cái, cách chúng tôi không xa. Tưởng địch bắn điểm để kêu pháo, chúng tôi vội chạy xa chỗ đó, lao thẳng về phía luỹ tre bìa làng trước mặt, kiếm chỗ núp pháo. Chợt nghe hàng tràng đại liên nổ thẳng vào mình. Chúng tôi vội bật qua phải, chạy ngược về thôn Tân An. Tiếng súng nổ như bắp rang điên loạn: “Tốc... Tốc... Tốc... Tốc... Chíu... Chíu... Tốc...” Phần lớn đạn đi vọt qua đầu chúng tôi. Một quả M.79 rơi cách tôi chừng 2 mét, tung cát lên. Quái lạ, sao không thấy mảnh nào văng vào tôi cả. Bãi đất quá rộng, chạy muốn đứt hơi. Mãi đến khi chúng tôi chạy lọt vào xóm, tiếng súng mới dứt. Bác Tá mệt quá, vấp cái hè nhà ngã xóng xoài. Chúng tôi nằm dài trên giường, vừa tức vừa buồn cười. Thật tụi lính ngu như bò, đến giờ này rồi mà còn cầm súng theo giặc, còn ngoan cố bắn bừa bãi. Nhưng bọn mày bắn cũng dở ẹc. Nằm một lúc, nghe pháo nổ ùng oàng phía trong xóm. Có lẽ bọn địch đoán chúng tôi đã chạy tới đó nên kêu pháo bắn chặn. Sau loạt pháo, chúng tôi ra ngõ nhìn qua bãi trống. Phía xóm nhà bên kia, có những tốp lính mang ba lô đi vào cấm. Chúng đi vào lại đi ra, quanh quẩn 3, 4 vòng. Có một mũi tiến vào cấm, đi về phía xóm chúng tôi ở. Chúng tôi chào gia đình, đi lên giữa xóm. Nghỉ một lúc lâu, nghe một chị phụ nữ kêu: “Ai mặc đồ xanh đi ngoài kia kìa”. Tôi nhìn thấy ngoài rào cách nhà này mấy chục mét có một thằng lính cõng ba lô đi ngang qua. Lại rủ nhau chạy ngược lên Thành Sơn.
Đồng bào cho biết chính bọn này hồi trưa kéo lên Liễu An bị du kích bắn chết 2 tên. Mấy cậu du kích xách súng rượt bọn địch đông gấp mấy mình chạy tán loạn trên đồng, rượt tuốt tới đập nước.
Có lẽ địch muốn chốt lại Liễu An. Xã triệu du kích các thôn về bàn kế hoạch trị chúng.
NGÀY 25/4/1972
Về làm việc tại căn cứ của Xã ủy. Nhận được Chỉ lệnh của Tỉnh:
- Các gia đình quanh thị trấn về nông thôn.
- Đào hầm hào.
- Sắp tới có xe tăng của ta, chú ý tránh lầm với xe tăng địch.
Xã ủy họp gấp nghe sơ kết 10 ngày đầu của chiến dịch A1:
- Diệt, bức rút, bức hàng 42 chốt của địch.
- Trung đoàn 40 ngụy đại bộ phận bị diệt. Địch điều về Tam Quan 1 Liên đội Bảo an. Địch co cụm trong các chốt, phản ứng chủ yếu dùng cối, pháo bắn. Bọn Bảo an, Dân vệ chưa bị diệt gọn nhiều nên còn hung hăng, bị lừa bịp, thúc ép giữ chốt. Ngụy quyền: một số bị diệt, bị bắt, một số trốn sâu trong quận lỵ.
- Ta: Các thứ quân đều đồng loạt nổ súng. Quần chúng bao vây nhiều chốt điểm. Khá nhất là phía Đông - Nam, trong đó xã Hoài Hương đồng bào tước được súng địch, giải phóng toàn bộ địa bàn. Bộ đội chủ lực khi tiến công mới diệt được sinh lực địch nhưng chưa làm chủ được trận địa, chưa đánh ban ngày, thương vong nhiều. Bộ đội huyện diệt chưa gọn mục tiêu. Du kích xã, thôn: có lúc sử dụng còn lãng phí lực lượng, bổ sung quân chậm. Nổi dậy chưa liên tục, chưa thực hiện đầy đủ mục tiêu là bức hàng mà đại bộ phận là bức rút các chốt địch.
- Nguyên nhân: Cấp ủy còn đánh giá địch cao, chưa thấy hết khả năng của quần chúng và sự tan rã mau chóng của địch, sự phát triển mau chóng của tình hình. Xuất hiện tư tưởng thỏa mãn, mệt mỏi, ỷ lại lực lượng trên. Ý thức tổ chức, kỷ luật còn lỏng lẻo.
Huyện ủy chỉ đạo như sau:
- Quân sự: Đánh liên tục vào các mục tiêu và chống phản kích. Diệt ác. Xây dựng làng chiến đấu. Xây dựng đội ngũ dân quân.
- Quần chúng: Nổi dậy, dứt điểm từng xã một. Tước súng, phá đồn địch. Khi đã giải phóng được xã rồi thì cho 2/3 lực lượng sang hỗ trợ xã bạn. Đảm bảo chỉ tiêu đi dân công, thanh niên tòng quân (Dân công lúc nào cũng phải sẵn sàng - dân công dài hạn đi 2 tháng, ngày 27 tháng 4 phải có mặt, dân công thường trực ngày 30 có người nhận). Tiến hành thu nghĩa vụ lương thực trong 10 ngày, sau đó mua; Cấm chuyển gạo ra vùng địch.
- Binh vận: Chỉ thị cho các binh sĩ đã theo cách mạng hành động ngay. Phá rã các lực lượng quân sự phụ trợ.
Anh Đức phổ biến tinh thần chỉ đạo nói trên cho cán bộ xã và các thôn và mọi người nhanh chóng tỏa về địa bàn của mình để triển khai thực hiện.
Tôi hiểu rằng tình hình còn căng thẳng và quyết liệt nhưng trận bão tấn công và nổi dậy sẽ không kẻ địch nào ngăn chặn nổi.
NGÀY 27/4/1972
Bọn lính đóng ở chốt An Quý đã bỏ chạy. Khi chúng tôi đến, đồng bào đã san xong các lô cốt, đang vác cây về. Gặp một bà già người gầy, má hóp vác tới 2 cây lớn. Bà nói: “Tôi mừng quá, vác 2 cây”. Bà con đang rũ các bao công sự đổ cát ra, san lấp các chiến hào, dỡ rào thép gai chuyển đi rào làng chiến đấu. Mấy cô gái chỉ vào một cái tủ sắt lớn, nói:
- Bữa trước lũ nó bắt chúng em nhốt trong đó, nóng muốn chết.
Các cô phá banh cửa tủ, lật nhào nó xuống.
Ông già Mường mời bằng được chúng tôi về nhà ăn cơm. Ông cho biết ông có 4 người con, trong đó có một con gái đã hy sinh và nhà ông đã cháy 9 lần. Ông nói, hồi trước có lần ông phải đi moi mót từng củ sắn sượng mà nuôi con và bộ đội. Còn bây giờ, lúa rất nhiều, ông muốn 5, 7 bộ đội về ở nhà để ông nuôi.
Anh ông Mường khoe năm nay hoa sen nở nhiều. Ông Mường là trưởng xóm 3. Hồi trưa, tôi thấy ông tới hỏi anh Mai: “Số cây lớn để tập trung lại chỗ anh?” và chạy đi hô hào đồng bào vác cây dồn vào một đống.
NGÀY 28/4/1972
Hôm nay đồng bào đi vây đồn Quy Thuận. Tôi đi với đoàn của Hoài Sơn và Bình Đê. Tôi đem theo máy ảnh, muốn ghi cho được những hình ảnh về nổi dậy của đồng bào, đồng thời muốn đi cùng đồng bào để có tư liệu sống, viết cho chân thực và sinh động. Khá đông. Có cờ, băng rầm rộ. Khi đoàn đến gần chốt thì địch bắn cối 60 tới. Tôi đang đứng bên đường, vừa nói: “Bà con bình tĩnh, đừng chạy tản mát” thì nghe một tiếng nổ bụp. Nằm vội xuống, thấy bên kia đường cát bụi bay mù mịt. Tai ù lên. Quả cối chỉ nổ cách tôi 5, 6 mét nhưng nhờ nó nổ dưới lề đường nên tôi vô sự. Tình hình căng quá, phải tạm lui đội quân chính trị để đưa đội quân quân sự đến trấn áp bọn trong đồn.
(Còn nữa)