Đêm 31/3 rạng ngày 01/4/1970. Tiểu đoàn 9 sử dụng 40 đồng chí đánh vào bên trong mục tiêu, còn 19 đồng chí làm nhiệm vụ: Trạm phẫu, tải thương, trinh sát bảo đảm dẫn đường hành quân vào vị trí chiến đấu. 40 đồng chí tiến công trên 3 hướng gồm: Hướng Đông đánh vào sở chỉ huy và khu thông tin, hướng Nam đánh vào trận địa pháo, sinh lực địch và bãi xe, hướng Tây đánh vào khu xe tăng M41. Trang bị của ta gồm: Hợp chất C4 tổng cộng 200kg, súng AK, B40, B41, K54 và kéo cắt hàng rào. Phương thức tác chiến: Bí mật khắc phục vật cản vượt qua các chướng ngại vật, luồn sâu, lót sát mục tiêu đến giờ hiệp đồng, đồng loạt nổ súng tấn công mục tiêu đánh từ trong đánh ra, đánh từ ngoài đánh vào, đánh.
Từ dưới đánh lên, đánh từ trên đánh xuống, đánh nở hoa trong lòng địch, tiêu diệt sở chỉ huy và khu thông tin ngay từ đầu, lực lượng địch có từ 400 đến 600 tên, ta đã phá hủy trận địa pháo, bãi xe, xe M41 và diệt sinh lực địch. Sau 01h00 giờ chiến đấu ta đã tiêu diệt 315 tên, phá hủy sở chỉ huy, khu thông tin; phá hủy 05 khẩu pháo 105 ly, 02 kho xăng, 03 kho đạn các loại, 03 kho quân trang, 59 nhà ngủ, 30 lô cốt. Phá hủy 19 xe M41. Cũng trong đêm hôm đó 11 đ/c ở các hướng khác cũng tiêu diệt được 01 Đại đội thiếu công binh của Mỹ khoảng 60 đến 70 tên tại chốt Cây Cày. (Cây kơ nia). Sau trận đánh tập thể và các cá nhân trong Tiểu đoàn đã được tặng thưởng 01 Huân chương Quân công hạng 3. Hai Huân Chương chiến công hạng 2; 18 Huân chương chiến công hạng 3. Đến tháng 8/1970 tôi được thay mặt đơn vị đi báo cáo tổng kết của Miền về các trận đánh giỏi điển hình của bộ đội Đặc công. Trận đánh địch ở đồng lô cao su 69 (làng 13) Dầu Tiếng, Tây Ninh đêm ngày 28 rạng ngày 29 tháng 4 năm 1970 của Tiểu đoàn 9: Lực lượng địch gồm 1 Tiểu đoàn quân ngụy thuộc Trung đoàn 8, Sư đoàn 5, 01 chi đoàn thiết giáp (xe bọc thép và M41), địch chuẩn bị mở một cuộc càn quét ra vùng ven. Qua một thời gian ngắn theo chỉ thị của trên Tiểu đoàn 9 phải tiêu tiệt một bộ phận sinh lực địch quan trọng, bao gồm: Sở chỉ huy, khu thông tin, phá hủy xe tăng, xe bọc thép và các phương tiện, chiến tranh của địch, làm thất bại âm mưu càn quét ra vùng ven, và bảo vệ các cơ sở cách mạng. Lúc này do thời gian chuẩn bị gấp đồng chí Đỗ Văn Ninh, Tiểu đoàn trưởng chỉ thị cho tôi trên cương vị Trợ lý tham mưu Tiểu đoàn, phải đi trực tiếp chuẩn bị chiến trường và đưa các đồng chí cán bộ Đại đội, Trung đội đến các mục tiêu được phân công cụ thể, bản thân tôi đột nhập vào các mục tiêu và chỉ cho các đ/c cán bộ Đại đội, Trung đội. Sau khi hoàn thành nhiệm vụ trinh sát điều nghiêm, tôi đã báo cáo với đồng chí Đỗ Văn Ninh Tiểu đoàn trưởng hạ quyết tâm chiến đấu. Dùng lực lượng 46 đồng chí chia làm 2 hướng: hướng Tây và hướng Bắc. Hướng Tây là hướng chủ yếu đánh vào sở chỉ huy, khu thông tin trận địa pháo, hướng Bắc đánh vào bãi để xe tăng, xe thiết giáp và sinh lực địch. Trong quá trình thực hiện nhiệm vụ đồng chí Ninh phân công tôi trực tiếp chỉ huy Mũi chủ yếu, theo giờ quy định cơ động lực lượng luồn sâu, lót sát mục tiêu. Sau đó tôi đã quay ra báo cáo và đề nghị Tiểu đoàn trưởng chuyển vị trí chỉ huy về vọng gác ban ngày của địch trên trục đường vị trí cũ có rừng cao su rậm rạp, địch sẽ tập trung hỏa lực vào đây. Cùng lúc này, lệnh cho các đơn vị sau khi đánh xong mục tiêu thì rút theo trục đường, không rút vào rừng cao su. Đúng như dự kiến, sau khi đánh xong pháo địch, máy bay trực thăng liên tiếp bắn và nã pháo vào khu vực lỗ cao su. Sau 01 giờ chiến đấu ta đã diệt 250 tên, phá hủy 02 kho, 18 xe tăng M41 đánh sập 06 lô cốt, 22 nhà ngủ, 01 trận địa cối 81 và sở chỉ huy cùng khu thông tin. Sau trận đánh này tập thể Tiểu đoàn được tặng thưởng Huân chương Quân công hạng Ba; 07 cá nhân được tặng Huân chương chiến công giải phóng hạng Ba trong đó có cá nhân tôi.
(Còn nữa)
T.Đ
(Ghi theo lời kể của Đại tá Nguyễn Văn Tải , nguyên Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 9 , Trung đoàn Đặc công 113 ( nay là Lữ đoàn Đặc Công 113)- Tài liệu báo cáo thành tích đề nghị phong tặng danh hiệu Anh hùng LLVTND) .