Thị trường carbon thế giới và ở Việt Nam

Ngày 07 tháng 01 năm 2022, Chính phủ Việt Nam đã ban hành Nghị định số 06/2022/NĐCP quy định phát giảm thải khí nhà kính (KNK). Theo đó, đến hết năm 2027 sẽ xây dựng hệ thống các chính sách tạo nền tảng cho thị trường vận hành cũng như thành lập và tổ chức thí điểm sàn giao dịch tín chỉ carbon. Phân tích tình hình phát triển, giới nghiên cứu đã rút ra những thế mạnh điểm yếu của xu thế toàn cầu. Từ đó đã có những đề xuất về sự phát triển của Việt Nam. Bài viết tổng hợp những nét nổi bật để cùng chia sẻ.

Thị trường carbon thế giới, sự hình thành và phát triển

Phân tích lộ trình phát triển kinh tế nhân loại cho thấy phát triển bền vững là quá trình tất yếu và quyền carbon là một trong những phương thức để đạt được sự phát triển này. Về thực chất đây là quá trình nhận thức về biến đổi khí hậu (BĐKH). Từ đây, Liên hợp quốc đã thành lập Công ước khung về BĐKH (UNFCCC) để tập hợp các quốc gia cùng tham gia, với mục tiêu tìm giải pháp đồng thuận trong ứng phó với BĐKH toàn cầu (Đặng Hùng Võ 2023).

Thị trường carbon được ra đời bởi chính sách khí hậu của các quốc gia, nó hình thành nhờ  những giao dịch hạn ngạch phát thải KNK hoặc giảm phát thải dưới dạng tín chỉ carbon, bao gồm cả thị trường bắt buộc và thị trường tự nguyện.

Thị trường carbon bắt buộc là thị trường luật pháp được kiểm kê, giảm sát phát thải KNK và tham gia trực tiếp vào các hoạt động trao đổi, buôn bán, chuyển giao hạn ngạch phát thải và tín chỉ carbon .Còn thị trường tự nguyện là thị trường cho phép các cơ sở phát thải tự bù trừ lượng phát thải của mình, bằng tín chỉ mua từ các dự án giảm phát thải trên cơ sở tự nguyện. Thị trường carbon tự nguyện được hình thành từ nhu cầu khác nhau của tổ chức nằm ngoài quy định giảm phát thải của nhà nước, nó cho phép các công ty được bù đắp trực tiếp lượng phát thải không bị ràng buộc. So với thị trường carbon bắt buộc, thị trường tự nguyện đa dạng và linh hoạt hơn.

Phát triển bền vững đặt ra như một phương thức chi phối hoạt động phát triển không hủy hoại môi trường. Vấn đề lớn được quan tâm trong Hội nghị Rio De Janeiro là phát triển gây phát thải các loại KNK, tạo nguy cơ gây BĐKH toàn cầu. Nhiều nghiên cứu đã chỉ ra, các loại KNK phát thải bao gồm carbon dioxide, methane, nitơ oxit, lưu huỳnh hexaflorua, chlorofluorocarbon và fluorocarbon. Trong dó, carbon dioxide chiếm tỷ lệ cao nhất nên các loại khí khác được quy đổi về carbon dioxide (CO2).

cb1-1680747552.jpg

Trung Quốc một thị trường carbon lớn nhất thế giới về  khí thải nhà kính (Ảnh minh họa)

Liên hợp quốc đã thành lập Công ước khung về BĐKH (UNFCCC) để tập hợp sự tham gia của các quốc gia với mục tiêu ứng phó với BĐKH toàn cầu. Từ năm 1995, Hội nghị của các đối tác tham gia UNFCCC mỗi năm họp một lần để thảo luận về ứng phó với BĐKH. COP1 họp tại Berlin, Đức vào năm 1995 và đến nay là COP27 được tổ chức tại Sharm (Ai Cập) vào năm 2022.

Nghị định thư Kyoto (KP) chính thức có hiệu lực từ ngày 16/2/2005, đến nay đã có 196 nước tham gia. Trong số này 36 quốc gia phát triển được yêu cầu phải có hành động giảm thiểu khí thải nhà kính với những cam kết cụ thể trong các nghị trình. Hội nghị COP11 gắn với Hội nghị Liên Hợp Quốc về BĐKH (CMP1) vào cuối năm 2005 tại Quebec (Canada ). Kể từ đây, mỗi Hội nghị COP đều gắn với Hội nghị các bên tham gia CMP. Hội nghị COP19 và CMP9 tại Vacsava (Ba Lan) vào năm 2013 đã quyết định vận hành khung Giảm phát thải KNK (Reducing Emission from Deforestation and Forest Degradation-REDD+). REDD+ hướng tới giảm phát thải KNK thông qua hạn chế mất rừng và suy thoái rừng; bảo tồn, nâng cao trữ lượng carbon hấp thụ nhờ quản lý bền vững tài nguyên rừng. Hội nghị COP21 và CMP11 tại Paris, (Pháp) cuối năm 2015 đã thống nhất Thỏa thuận quản lý phương thức giảm BĐKH từ năm 2020.

Thị trường carbon quốc tế ban đầu được hình thành dựa trên cơ chế của KP, sau đó mở rộng ra nhiều quốc gia và khu vực, qua những dấu ấn phát triển của chính sách khí hậu. Công ước khung của Liên hợp quốc về BĐKH (UNFCCC) năm 1992 chưa đặt hạn mức phát thải KNK cho các quốc gia thành viên và thiếu cơ chế thực thi, ràng buộc về pháp lý chưa rõ ràng. Nghị định thư Kyoto của COP 3 đã ràng buộc các quốc gia bằng mục tiêu pháp lý cụ thể. Những nước phát triển phải giảm 5% lượng phát thải KNK trong giai đoạn 2008-2012 (so với mốc của năm 1990) và theo quyết định của COP 18 tại Doha, Qatar năm 2012, thì các quốc gia này cần giảm tới 18% trong cam kết của giai đoạn hai (2013 -2020).

Công cụ định giá carbon mang tính thị trường đầu tiên được thiết lập là cơ chế phát triển sạch (Clean Development Mechanism- CDM); Giao dịch phát thải quốc tế (International Emissions Trading-IET) và khung khổ thực hiện chung (Joint Implementation-JI). Đây là những cơ chế đặt nền móng cho sự hình thành và phát triển thị trường carbon quốc gia và quốc tế.

Dấu mốc hình thành thị trương carbon đầu tiên trên thế giới ra đời với sự hỗ trợ của KP năm 1992; Thỏa thuận Paris (AP) năm 2003 và Công ước khung của Liên hợp quốc về BĐKH (UNFCCC) năm 2005. Hệ thống giao dịch phát thải của châu Âu (EU-ETS), được giới thiệu trong Chỉ thị 2003/87/EC của Liên minh châu Âu (EU), đã thiết lập cơ sở pháp lý, quy định phương thức hoạt động của EU-ETS, giúp EU đạt được cam kết KP. Khi KP chính thức có hiệu lực, phiên giao dịch phát thải của EU-ETS đã tiến hành trong các lĩnh vực điện, thép, lọc dầu và xi măng ở 25 quốc gia thành viên. Nó đánh dấu sự ra đời của hệ thống giao dịch phát thải KNK đầu tiên trên thế giới.

Thị trường carbon phát triển nhanh, đặc biệt khi cơ chế phát triển sạch (Clean Development Mehanism-CDM) trở nên phổ biến vào cuối năm 2000. Năm 2003, Tổ chức quốc tế về bảo tồn thiên nhiên (WWF) đã hợp tác và phát triển tiêu chuẩn carbon tự nguyện thành Tiêu chuẩn Vàng (Gold Standard-GS), nhằm tối đa hóa khả năng giảm phát thải từ các dự án, thúc đẩy phát triển bền vững và tạo ra giá trị kinh tế cho các dự án giảm phát thải toàn cầu. Vào năm 2007, các nhà hoạt động vì môi trường đã thiết lập Tiêu chuẩn carbon được thẩm định (Verified Carbon Standard-VCS). Các dự án tín chỉ carbon được phát triển và đăng ký theo các tiêu chuẩn carbon tự nguyện như Tiêu chuẩn carbon được thẩm định (VCS) hay Tiêu chuẩn vàng (Gold Standard -GS) và các tiêu chuẩn carbon tự nguyện khác.

Sau rất nhiều cam kết của các nhà lãnh đạo thế giới, khí hậu toàn cầu vẫn diễn biến phức tạp. Hội đồng liên chính phủ về biến đổi khí hậu (IPCC) cho biết, lượng phát thải KNK vẫn gia tăng trên mọi lĩnh vực toàn cầu. Các nhà khoa học cảnh báo, ngưỡng nhiệt độ tăng thêm 2°C sẽ bị vượt qua trong thế kỷ 21. Những giải pháp giảm phát thải đáp ứng yêu cầu giảm sâu KNK đòi hỏi mức đầu tư cao. Theo ước tính, những nước đang phát triển cần đến 6 nghìn tỉ USD để hoàn thành 1/2 mục tiêu đặt ra trong đóng góp do quốc gia tự quyết định (NDC). IPCC nhận xét, cho đến nay chưa có nước nào đáp ứng được nguồn tài chính cho BĐKH. Thách thức đặt ra là giải quyết nhu cầu tài chính ứng phó với BĐKH để đảm bảo trái đất không bị rơi vào khủng hoảng khí hậu nghiêm trọng (Pan Nature 2923).

cb2-1680747552.jpg

Tăng trưởng thị trường carbon trong xu thế hướng tới Net Zero (Ảnh minh họa)

Thị trường carbon đang được xem là một trong những giải pháp để vượt qua thách thức tài chính. Thỏa thuận Paris 2015, tạo tiền đề cho cơ chế phát triển thị trường carbon. Đến nay, thế giới đã đạt được những đồng thuận quan trọng về quy trình và phương thức để tiếp cận thị trường carbon. Nhiều quốc gia đã và đang xúc tiến xây dựng thị trường này để tạo nguồn tài chính cho các hành động giảm phát thải KNK. Tuy nhiên, lộ trình này ở các cấp quốc gia và toàn cầu đều gặp nhiều thách thức khác nhau.

Thị trường Carbon thế giới là thị trường bắt buộc các công cụ định giá phải áp dụng hệ thống giao dịch phát thải; cơ chế tín chỉ bù trừ carbon và công cụ định giá. Những công cụ này đã được áp dụng phổ biến trong thị trường tự nguyện. Ngày nay, VCS đã trở thành tiêu chuẩn carbon tự nguyện lớn nhất cả về số lượng dự án và lượng tín chỉ phát hành. Sau sự ra đời của VCS, GS và hàng loạt tiêu chuẩn carbon tự nguyện khác đã được thiết lập như Plan Vivo, Climate Action Reserve v..v..

Thực trạng của cơ chế tín chỉ carbon đã thể hiện sự suy giảm về số lượng theo cơ chế tín chỉ quốc tế. Sự sụt giảm này được cho là do cộng đồng quốc tế đã không sớm đạt được thỏa thuận cho việc thực hiện trong giai đoạn cam kết thứ hai (2013-2020), Ngược lại, lượng tín chỉ carbon được ban hành bởi tiêu chuẩn carbon độc lập tăng mạnh, do những cam kết giảm phát thải tự nguyên ngày một gia tăng. Thực tế phát triển đã thúc đẩy mạnh sự ra đời của các công ty tự nguyện và dẫn đến tình trạng, số lượng dự án CDM sụt giảm và thị trường carbon tự nguyện lại phát triển nhanh. Vào năm 2010, lần đầu tiên lượng giao dịch trên thị trường tự nguyện đã vượt giao dịch CDM. Thị trường carbon tự nguyện được dự báo sẽ còn phát triển mạnh trong thời gian tới, có thể lên tới 25 tỷ đô la vào năm 2030 và đến 480 tỷ đô la trong năm 2050.

Thị trường Carbon ở Việt Nam

Tháng 11/2020, Luật Bảo vệ Môi trường sửa đổi được thông qua, lần đầu tiên Luật đã quy định về tổ chức và phát triển thị trường carbon trong nước. Theo đó, Bộ TN&MT được giao nhiệm vụ và cơ chế tín chỉ bù trừ carbon. Ngày 07/01/2022, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 06/2022/NĐ-CP về giảm nhẹ phát thải KNK và bảo vệ tầng ô-zôn đã quy định chi tiết Điều 91 của Luật BVMT về giảm phát thải và Điều 139 về hình thành và phát triển thị trường carbon.

Phân tích tổng lượng khí thải theo tín chỉ ban hành các nhà phân tích nhận thấy, lượng khí thải  CO2 đã gia tăng dều và liên tục qua từng năm, năm 2021 đã cao gấp 10 lần năm 2008. Từ kinh nghiệm tham gia thị trường carbon quốc tế thông qua các dự án tín chỉ carbon của cơ chế CDM,

chính phủ Việt Nam đã ban hành những văn bản tạo cơ sở pháp lý cho việc thực hiện CDM như Chỉ thị số 35/2005/CT-TTg về tổ chức thực hiện KP, Quyết định số 130/2007/QĐ-TTg về cơ chế, chính sách tài chính đối với dự án đầu tư theo cơ chế CDM. Tính đến tháng 11/2022 đã có 276 dự án CDM với 29,4 triệu tín chỉ carbon được ban hành. Việt Nam cũng đã phát triển các dự án tín chỉ carbon theo tiêu chuẩn tự nguyện. Đến tháng 11/2022, có 32 dự án đăng ký theo Tiêu chuẩn Vàng (GS) và 27 dự án đăng ký theo tiêu chuẩn carbon được thẩm định (VCS) với số lượng tín chỉ được ban hành lần lượt là 5,7 triệu và 1,3 triệu tín chỉ.

Ngoài tín chỉ, các loại hình năng lượng tái tạo như điện sinh khối, điện gió, điện mặt trời và nâng cao hiệu quả năng lượng đã được khai thác mở rộng. Luật Bảo vệ Môi trường (2020) đã cung cấp khung pháp lý cơ bản cho việc hình thành thị trường carbon nội địa. Quyết định số 01/2022/QĐ-TTg của Thủ tường Chính phủ đã quy định những danh mục lĩnh vực, cơ sở phát thải KNK mà các tổ chức và đối tượng tham gia vào thị trường carbon phải thực hiện kiểm kê.

Từ những chủ trương chính sách lớn của lãnh đạo Đảng và Chính phủ có thể thấy, đến hết năm 2027, Việt Nam sẽ xây dựng được hệ thống quy định, chính sách tạo nền tảng cho thị trường vận hành, thành lập và tổ chức vận hành thí điểm sàn giao dịch tín chỉ carbon hướng đến chính thức vận hành vào năm 2028. Trong đó, thị trường carbon rừng của Việt Nam có tiềm năng mang lại nhiều lợi ích, không chỉ cho mục tiêu giảm phát thải mà còn góp phần to lớn vào phát triển kinh tế-xã hội cho hơn 25 triệu dân có sinh kế phụ thuộc vào rừng.

Với tổng diện tích rừng khoảng 14,7 triệu ha, đạt độ che phủ rừng 42%, theo nhiều ước tính, mỗi năm rừng có thể hấp thụ khoảng 69,8 triệu tấn carbon (CO2). Thông qua thị trường carbon, rừng có thể mang lại một nguồn thu đáng kể phục vụ công tác quản lý, bảo vệ cũng như nâng cao thu nhập cho các cộng đồng sống phụ thuộc vào rừng (Pan&Naure 2023).

Trong những năm gần đây, tăng trưởng của thị trường tín chỉ carbon chủ yếu là do đóng góp của thị trường carbon tự nguyện. Từ giai đoạn 2019-2020 trở đi, lượng tín chỉ do cơ chế CDM chỉ chiếm 1/10 tổng lượng tín chỉ carbon được phát hành hàng năm. Tại Việt Nam, các dự án tín chỉ carbon phần lớn được đăng ký theo Tiêu chuẩn vàng (GS) và Tiêu chuẩn carbon được thẩm định (VCS). Tính tới tháng 11/2022 đã có hơn 9 triệu tín chỉ được ban hành theo thị trường carbon tự nguyện; trong đó, có 20 dự án đăng ký theo tiêu chuẩn GS bán ra thị trường hơn 7.047 nghìn tín chỉ và 27 dự án theo tiêu chuẩn VCS với trên 2.402.nghìn  tín chỉ (Dương Văn Huy 2023).

Có thể thấy, việc phát triển dự án tín chỉ carbon trong lĩnh vực bảo vệ và phát triển rừng còn khá hạn chế, mới có 2 dự án trồng rừng mới đăng ký theo tiêu chuẩn GS và 9 dự án theo cơ chế CDM; 95% số lượng dự án tín chỉ carbon rừng được đăng ký theo VCS do tiêu chuẩn này cung cấp các phương pháp luận hỗ trợ cho các hoạt động liên quan tới sáng kiến REDD+.

Sau tuyên bố mục tiêu đạt Net-Zero vào năm 2050, Việt Nam đang đẩy mạnh phát triển kinh tế theo hướng carbon thấp và khuyến khích các hoạt động giảm phát thải KNK. Nghị định 06/2022/NĐ-CP của Chính phủ đã quy định về tổ chức, phát triển thị trường carbon trong nước với mục tiêu đến năm 2028 chính thức vận hành. Nghị định tạo cơ sở khuyến khích các tổ chức, đầu tư vào dự án có tiềm năng tạo tín chỉ có thể trao đổi được cả ở trong nước và trên thế giới.

Tín chỉ carbon rừng với thưc trang và những khó khăn, thách thức

Đến năm 2022, Việt Nam có 14,7 triệu ha rừng, trong đó 70% diện tích là rừng tự nhiên. Đây là nơi hấp thụ carbon vô cùng tiềm năng. Tuy nhiên, do vấn nạn chặt phá rừng, chuyển đổi đất rừng trái phép và hệ thống canh tác độc canh, chất lượng rừng nhiều khu vực đang ở mức đáng báo động. Khuyến khích các dự án tín chỉ carbon nhằm bảo vệ và tăng trữ lượng rừng là vấn đề cấp bách. Dự thảo sửa đổi, bổ sung Nghị định 156/2018/NĐ-CP đã nhấn mạnh các hoạt động được chi trả dịch vụ hấp thụ và lưu giữ carbon của rừng, giảm phát thải KNK từ hạn chế mất rừng và suy thoái rừng, quản lý rừng bền vững (Dương Văn Huy 2023).

cb3-1680747552.jpg

        Rừng Cúc Phương nơi hấp thụ và lưu giữ carbon ở thân, cành,và dưới đất (ảnh minh họa)

Thống kê lượng tín chỉ carbon đã ban hành tại Việt Nam theo tiêu chuẩn tự nguyện đến tháng 11 năm 2022 cho thấy, đối với các loại hình dự án rừng Việt Nam mới có duy nhất một dự án được đăng ký theo tiêu chuẩn carbon tự nguyện của Plan Vivo, những dự án mới vận dụng vào hoạt động bảo vệ, phát triển rừng bền vững và sinh kế của cộng đồng sống dựa vào rừng.

Đến nay, đối với rừng trồng. những quy định mới tập trung vào trồng rừng mới và tăng hấp thụ carbon bằng các hoạt động nâng cao năng suất rừng trồng. Đối tượng thực hiện các hoạt động này chủ yếu là chủ rừng nhỏ và các công ty lâm nghiệp có hoạt động trồng rừng; hoạt động này đang hướng đến đối tượng là cộng đồng dân tộc thiểu số sống dựa vào rừng và những hoạt động nông lâm nghiệp chưa bền vững.

Với việc ký kết hàng loạt thỏa thuận quốc tế về BĐKH như cam kết đưa mức phát thải ròng về “0” vào năm 2050, cam kết giảm phát thải metan toàn cầu vào năm 2030, ký Tuyên bố Glasgow của các nhà lãnh đạo về rừng và sử dụng đất rừng; Việt Nam đang tích cực hoàn thiện khung chính sách nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho việc phát triển các dự án tín chỉ carbon trong lĩnh vực rừng. Việc đa dạng hóa nguồn tài chính cho thị trường carbon được thiết lập thông qua những ràng buộc của các quốc gia đã ký và phê chuẩn KP, các dự án hình thành theo cơ chế KP được coi là thị trường carbon bắt buộc.

Việt Nam đã phát triển nhiều dự án theo cơ chế CDM để nhận được những hỗ trợ quốc tế trong thực hiện các biện pháp giảm phát thải. Cơ chế này cho phép các bên nhận tín chỉ dưới dạng các “chứng nhận giảm phát thải”, viết tắt là CERs (1 CER = 1 tấn CO2 tương đương). Cơ sở dữ liệu từ UNFCCC cho thấy, đến 5/12/2022, tổng số dự án tín chỉ carbon theo cơ chế CDM tại Việt Nam là 258 dự án với 15 chương trình dự án đăng ký thành công. Tổng lượng tín chỉ đã ban hành từ các dự án CDM tại Việt Nam là 30.736.808 CERs. Có thể thấy, lượng, tín chỉ carbon theo cơ chế CDM tập trung chủ yếu trong lĩnh vực năng lượng tái tạo và sử dụng, thu hồi khí đồng hành. Trong thời gian hiệu lực của KP, Việt Nam chỉ có duy nhất 1 dự án trồng rừng tại Cao Phong (Hòa Bình) đăng ký thành công,

Thị trường carbon bắt buộc phát triển dưới hình thức của các cơ chế giao phát thải và bù trừ tín chỉ carbon trong nước, liên vùng, liên lãnh thổ và các chương trình giảm phát thải KNK bắt buộc. Cùng với sự ra đời của cơ chế trong khuôn khổ KP, cuối những năm 1990, một số tổ chức độc lập đã phát triển các cơ chế đăng ký và ban hành tín chỉ carbon tự nguyện. So với thị trường carbon bắt buộc, loại hình dự án của thị trường carbon tự nguyện đa dạng và linh hoạt hơn.

Tài chính bền vững cho ngành lâm nghiệp từ nguồn tín chỉ carbon trong các hoạt động bảo vệ và phát triển rừng được xem là một trong những giải pháp ưu tiên trong chính sách ứng phó BĐKH. Thị trường carbon rừng với sự ra đời của UNFCCC đã giúp các quốc gia nhận ra và thừa nhận tác động tiêu cực của BĐKH.

Là mối quan tâm chung của nhân loại, thị trường carbon rừng đã được thể hiện trong những nỗ lực chống lại BĐKH và giảm phát thải KNK toàn cầu. Các dự án tín chỉ carbon tự nguyện thường có quy mô nhỏ và tập trung vào phát triển bền vững. Trong giai đoạn đầu mới thành lập, chỉ một số nhỏ tổ chức thực hiện việc đăng ký dự án tín chỉ carbon nhưng tỷ lệ này đã tăng lên nhanh chóng. Sau tuyên bố mục tiêu đạt Net-Zero vào năm 2050, Việt Nam đã đẩy mạnh phát triển kinh tế theo hướng carbon thấp và khuyến khích các hoạt động giảm phát thải KNK.

Việc bảo vệ và phát triển rừng trong phạm vi của các hoạt động có thể xây dựng và đăng ký dự án carbon theo tiêu chuẩn CDM hoặc các tiêu chuẩn của thị trường carbon tự nguyện. GS và VCS, là những tiêu chuẩn được áp rộng rãi trên toàn cầu với những phương pháp được kế thừa và phát triển từ CDM. Tuy nhiên, cơ chế CDM và GS chỉ công nhận các dự án trồng rừng, không thừa nhận phương pháp liên quan tới REDD+. Do dó, cho đến tháng 11 năm 2022, mới có 252 dự án tín chỉ carbon cho hoạt động bảo vệ và phát triển được đăng ký thành công.

Hoạt động bảo vệ và phát triển rừng tự nhiên theo cơ chế REDD+ do các cơ quan chính quyền cùng phối hợp người dân địa phương thực hiện, gồm các dự án trồng rừng, trồng rừng ngập mặn và REDD+. Rừng trồng mới và tăng hấp thụ carbon bằng các hoạt động nâng cao năng suất rừng trồng với đối tượng thực hiện chủ yếu là chủ rừng nhỏ và các công ty lâm nghiệp có hoạt động trồng rừng. Muốn tăng hấp thụ carbon từ đầu tư đến áp dụng biện pháp canh tác chủ yếu cần hướng tới cộng đồng dân tộc thiểu số sống dựa vào rừng và canh tác nông nghiệp chưa bền vững.

Hoạt động chi trả thực hiện theo từng loại hình rừng và do các cơ quan chính quyền phối hợp cùng người dân địa phương thực hiện. Rừng ngập mặn là một trong những đối tượng hấp thụ carbon lớn và mang lại tác động tích cực trong ứng phó với BĐKH tại khu vực ven biển.

Việc phát triển dự án tín chỉ carbon rừng phù hợp với định hướng của Việt Nam trong tối ưu hóa các nguồn đầu tư xã hội hóa từ các doanh nghiệp và tổ chức thực hiện nhiệm vụ bảo vệ và phát triển rừng. Tuy nhiên, hiện chưa có nhiều dự án rừng đăng ký thành công do thiếu khung pháp lý hoàn chỉnh hỗ trợ; việc phát triển dự án cũng như các yêu cầu ngày càng khắt khe về tính toàn vẹn môi trường của các tiêu chuẩn carbon cao hiện nay.

Cuối năm 2022, Chính phủ Việt Nam ban hành Nghị định 107/NĐ-CP về thí điểm chuyển nhượng kết quả giảm phát thải KNK ở vùng Bắc Trung Bộ. Đây được coi là tiền đề để thúc đẩy các hoạt động hợp tác quốc tế trong bảo vệ và phát triển rừng. Các ngành chức năng đã tham mưu, giúp Chính phủ xây dựng và vận hành bộ cơ sở dữ liệu quốc gia về hiện trạng rừng, được cập nhật định kỳ với những thông tin có thể dễ dàng trích xuất; năng lực quản lý, giám sát rừng được nâng cao và cho kết quả chính xác hơn. Tuy nhiên việc triển khai thực hiện còn nhiều khó khăn và thách thức.

Trước hết dự thảo sửa đổi Nghị định 156/2018/NĐ-CP chưa ban hành nên các hoạt động thí điểm về phát triển dự án carbon chưa được phê duyệt để đăng ký và phát hành tín chỉ ra thị trường; quyền carbon và cơ chế chia sẻ lợi ích cũng chưa được quy định rõ ràng.

Các dự án trồng rừng đem lại lượng tín chỉ lớn nhưng thường do các hộ gia đình trồng, diện tích nhỏ, trung bình từ 1-2 héc-ta, lại khá phân mảnh, các đơn vị quản lý hầu như chưa có  đầy đủ thông tin về lịch sử mất rừng; chưa nhất quán và khó tổng hợp đầy đủ trong xác định các yếu tố mất rừng. Theo cơ chế REDD+, đây lại là căn cứ để xây dựng đường cơ sở, từ đó mới xác định được lượng tín chỉ thu được trong các dự án bảo vệ và phát triển rừng.

Đối với canh tác nông lâm kết hợp, đây là một loại hình tiềm năng đăng ký dự án tín chỉ carbon. Tuy nhiên, về lĩnh vực này cần có thêm thời gian nâng cao nhận thức cũng như xây dựng các mô hình thí điểm tại địa phương để người dân có thể học hỏi, làm theo. Do một phần diện tích đất sẽ được chuyển đổi từ cây nông nghiệp ngắn ngày sang cây lâm nghiệp lâu năm, thời gian ban đầu mất một phần đất canh tác sẽ ảnh hưởng tới kinh tế hộ gia đình nên việc nâng cao nhận thức của người dân trong giai đoạn thiết kế là vô cùng quan trọng để đảm bảo thành công.

Rừng ngập mặn giữ vai trò quan trọng trong ứng phó với BĐKH. Đây là lớp bảo vệ cho tài sản của người dân ven biển và hạn chế xâm nhập mặn cũng như xói mòn bờ biển. Rừng ngập mặn đem lại nguồn lợi kinh tế to lớn từ nguồn thủy sản đa dạng sống dưới tán rừng. Tuy nhiên, rừng ngập mặn lại cần một khoản đầu tư rất lớn (trồng mới 1 héc-ta rừng ngập mặn có thể lên tới 500 triệu đồng). Để phát triển các dự án trồng rừng ngập mặn cần một nguồn ngân sách phù hợp của địa phương trong thời gian dài. Ngoài ra, tỷ lệ thành công của các dự án trồng và bảo vệ rừng ngập mặn thường thấp hơn rất nhiều so với trồng rừng trên cạn, làm tăng thêm rủi ro cho việc đầu tư phát triển dự án trồng và phục hồi cũng như dự án tín chỉ carbon từ rừng ngập mặn.

Thay cho lời kết

Những năm gần đây, sự quan tâm của toàn xã hội tới giảm phát thải KNK đã làm thị trường carbon, đặc biệt là thị trường carbon tự nguyện trở nên sôi động. Với sự bùng nổ của các tiêu chuẩn tự nguyện, lượng tín chỉ ban hành từ các tiêu chuẩn tự nguyện chiếm gần 90% tổng lượng tín chỉ carbon phát hành.  Hệ thống tiêu chuẩn tự nguyện ngày càng cải thiện cùng với các yếu tố phát triển bền vững, hệ thống giám sát đánh giá minh bạch nhằm đáp ứng yêu cầu khắt khe của khách hàng. Các dự án rừng và nông nghiệp bền vững với chất lượng cao ngày càng được khách hàng tìm mua đã tạo cho ngành một vị trí xứng đáng trên thị trường.

Việt Nam có tiềm năng lớn trong việc phát triển các dự án rừng và phát triển bền vững. Tuy nhiên, đến nay, mới có một số ít dự án CDM và REDD+ theo cơ chế tự nguyện đăng ký thành công. Những rào cản về chính sách và kỹ thuật như quyền carbon, cơ chế chia sẻ lợi ích và quy định nghĩa vụ đóng góp vẫn còn nhiều tồn tại, khiến nhiều dự án bị trì hoãn và chưa thể đăng ký ban hành tín chỉ carbon. Trong tương lai, khi khung chính sách hoàn thiện và các rào cản được tháo gỡ, thị trường tín chỉ carbon rừng tại Việt Nam có nhiều hứa hẹn phát triển, sẽ đáp ứng được nhu cầu tín chỉ carbon chất lượng cho thị trường trong nước và trên thế giới.

cb4-1680747552.jpg

Việt Nam hướng tới xây dựng và vận hành thị trường carbon hiệu quả, bền vững.

Thảo luận về thị trường Carbon Việt Nam, giới phân tích có chung nhận xét, đây là yếu tố đảm bảo hiện thực hóa các mục tiêu giảm phát thải tương lai. Các dự án rừng hoặc nông nghiệp bền vững ngày càng được ưa chuộng nhờ chất lượng và giá trị cao do lợi thế tự nhiên mang lại. Thông qua thị trường carbon, rừng có thể mang lại một nguồn thu đáng kể phục vụ quản lý, bảo vệ và nâng cao thu nhập cho các cộng đồng sống phụ thuộc vào rừng.

Những đặc thù trong xây dựng thị trường carbon, nhất là thị trường carbon rừng cho thấy, nhiều tiềm năng chưa được khai thác hợp lý; cơ chế quản lý và nhận thức xã hộ còn nhiều bất cập.

Hy vọng những thảo luận và khuyến nghị chính sách gợi ra của các tổ chức nghiên cứu và các nhà khoa học sẽ là những đóng góp thiết thực và có ý nghĩa cho quá trình xây dựng thị trường carbon theo hướng mở ra một dòng tài chính mới phục vụ mục tiêu giảm phát thải KNK và góp phần quan trọng vào giảm thiểu tác động của BĐKH./.