Giá gạo duy trì ở mức cao
Thông tin từ Cục Trồng trọt (Bộ Nông nghiệp và PTNT), hàng năm vùng ÐBSCL sản xuất khoảng 3,8-3,9 triệu ha lúa/năm, sản lượng đạt khoảng 24-25 triệu tấn, và đang đóng góp phần lớn lượng lúa gạo phục vụ xuất khẩu của nước ta, cũng như đảm bảo tiêu dùng trong nước. Thời điểm này, những đồng lúa đông xuân sớm ở ĐBSCL đang vào vụ thu hoạch, nếu duy trì sản lượng xuất khẩu trên 400.000 tấn/tháng trong 2 tháng cuối năm, xuất khẩu toàn ngành gạo năm nay có thể đạt từ 6,8 tới 7 triệu tấn.
Hàng năm vùng ÐBSCL sản xuất khoảng 3,8-3,9 triệu héc-ta lúa/năm, sản lượng đạt khoảng 24-25 triệu tấn.
Theo Hiệp hội Lương thực Việt Nam - VFA, giá chào bán gạo xuất khẩu 5% tấm đang ở mức 428 USD/tấn, gạo 25% tấm ở mức 408 USD/tấn, so với thời điểm trước khi Ấn Độ ban hành chính sách hạn chế xuất khẩu gạo thì giá xuất khẩu mặt hàng này của Việt Nam tăng trung bình khoảng 30 USD/tấn.
Các chuyên gia nhận định, trong ngắn hạn, giá gạo Việt Nam sẽ tiếp tục duy trì ở mức cao khi những bất ổn về kinh tế, chính trị toàn cầu làm nhu cầu lương thực tăng cao. Do đó, các doanh nghiệp xuất khẩu cần nắm bắt cơ hội trong việc tiếp cận và mở rộng các thị trường mới.
Về thị trường, ông Lê Thanh Hòa, Phó Cục trưởng Cục Chế biến và Phát triển thị trường Nông sản (Bộ Nông nghiệp và PTNT) cho biết, các doanh nghiệp cần đặc biệt quan tâm tới Trung Quốc. Đây vốn là thị trường lớn và tiềm năng của nông sản Việt cả trong quá khứ lẫn hiện tại. Quốc gia đông nhất thế giới đang có nhiều thay đổi lớn về các yêu cầu nhập khẩu từ kiểm dịch thực vật, quy định đóng gói, nhãn mác, truy xuất nguồn gốc, mã số vùng trồng,… Hiện có 22 doanh nghiệp Việt Nam đang được cấp phép xuất gạo vào Trung Quốc, nhưng mỗi năm chỉ được xuất khẩu với hạn mức nhất định.
Hải quan Trung Quốc hiện có thể truy xuất rõ ràng sản lượng, hạn mức của từng doanh nghiệp được cấp phép nên các đơn vị xuất khẩu không có cơ hội để gian dối trong hoạt động này. Mỗi năm, Trung Quốc cần nhập khoảng 5,3 triệu tấn.
Phó Cục trưởng Cục Chế biến và Phát triển thị trường Nông sản khẳng định, bên cạnh Trung Quốc, EU và Anh cũng là hai thị trường quan trọng và có tiềm năng lớn nhờ hạn ngạch xuất khẩu lớn. Để tận dụng lợi thế từ các hiệp định thương mại tự do và hạn ngạch xuất khẩu, các doanh nghiệp xuất khẩu cần có sự liên kết chặt chẽ với các đơn vị thu mua, chế biến để đáp ứng các chứng nhận, tiêu chuẩn kỹ thuật,…của thị trường nhập khẩu.
Sản xuất lúa gạo tại ĐBSCL vẫn còn một số hạn chế (Ảnh minh họa).
Bên cạnh việc nâng cao năng suất, chất lượng, ngành lúa gạo Việt Nam đang đi theo hướng sạch, bền vững. Cụ thể, doanh nghiệp, nông dân tại Việt Nam nói chung và ĐBSCL nói riêng đang tăng sử dụng các chế phẩm sinh học, phế phụ phẩm nông nghiệp như: vỏ trấu, cám, phân hữu cơ. Qua đó, hiện thực hóa cam kết cắt giảm khí thải nhà kính, chú trọng phấn đấu đến năm 2030 sẽ giảm 50% phát thải khí mê tan.
Kết quả đạt được là vậy, song nhìn chung việc phát triển sản xuất, tiêu thụ lúa gạo theo chuỗi tại vùng ÐBSCL vẫn còn hạn chế và gặp nhiều khó khăn. Tỷ lệ tiêu thụ lúa của nông dân thông qua thương lái còn cao, trong khi qua hợp đồng bao tiêu của doanh nghiệp còn ít. Tình trạng phá vỡ hợp đồng trong liên kết sản xuất, tiêu thụ lúa gạo thường xuyên xảy ra. Công nghệ xay xát, chế biến gạo ở một số đơn vị, doanh nghiệp còn lạc hậu. Còn thiếu thương hiệu gạo Việt mạnh ở cả thị trường nội địa và xuất khẩu…
Đẩy mạnh liên kết
Tại “Diễn đàn trực tuyến kết nối cung cầu chuỗi lúa gạo vùng ÐBSCL” diễn ra mới đây, nhiều đại biểu cho rằng, để đẩy mạnh liên kết sản xuất, tiêu thụ lúa gạo theo chuỗi tại vùng ÐBSCL, các cơ quan chức năng Trung ương và địa phương cần tiếp tục quan tâm bố trí cơ cấu giống, mùa vụ phù hợp để đáp ứng nhu cầu thị trường và né rầy, tránh hạn mặn.
Kịp thời hỗ trợ tháo gỡ khó khăn, thúc đẩy liên kết giữa nông dân với nhau và với doanh nghiệp theo hướng hài hòa lợi ích giữa các bên với sự hỗ trợ, giám sát chặt chẽ từ các cơ quan quản lý Nhà nước. Khuyến khích người dân, doanh nghiệp đẩy mạnh ứng dụng tiến bộ kỹ thuật, công nghệ mới và chuyển đổi số để nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh lúa gạo, tăng cường khả năng kết nối với nhau…
Thương lái thu mua lúa gạo tại ĐBSCL.
Theo ông Nguyễn Việt Anh, Tổng giám đốc Công ty TNHH lương thực Phương Đông, để phát triển ngành hàng lúa gạo, cần sự liên kết, vào cuộc của nhiều nhà, như nhà nông, nhà khoa học, nhà nước, nhà quản lý.
Ông Trần Thái Nghiêm, Phó Giám đốc Sở Nông nghiệp và PTNT Cần Thơ đề xuất Bộ Nông nghiệp và PTNT và Bộ Công thương định kỳ công bố giá lúa tươi, lúa khô trong vụ thu hoạch để các đơn vị thu mua và nông dân tham khảo. Qua đó, tránh được sự nhiễu loạn trong thị trường, cũng như tạo dựng niềm tin giữa doanh nghiệp và nông dân. Sở Nông nghiệp và PTNT Cần Thơ cũng kêu gọi các doanh nghiệp đầu tư vào khai thác, sử dụng phế phụ phẩm nông nghiệp khi đây là lĩnh vực mà Cần Thơ và các tỉnh ĐBSCL còn nhiều dư địa phát triển.
Trong khi đó, ông Trương Kiến Thọ, Phó Giám đốc Sở Nông nghiệp và PTNT tỉnh An Giang cho rằng, câu chuyện liên kết trong chuỗi giá trị lúa gạo là khó nhất trong sản xuất lúa hiện nay ở ĐBSCL. Để chuỗi liên kết đạt kết quả, sau mỗi mùa vụ, ngành nông nghiệp An Giang đều mời các bên liên quan ngồi lại với nhau, cùng kết nối, lắng nghe, chia sẻ, tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc. Yêu cầu doanh nghiệp, hợp tác xã, người dân tham gia cần thực hiện đúng những gì đã cam kết. Ngoài ra, cũng cần tận dụng tốt các phụ phẩm trong sản xuất nông nghiệp để tăng thêm thu nhập, gia tăng chuỗi giá trị bền vững.
Có một khó khăn nữa là trong khâu thanh toán thu mua lúa nguyên liệu. Doanh nghiệp có tiền, có tài khoản nhưng không thanh toán được cho nông dân vì họ chưa quen với ngân hàng số. Nông dân vẫn có tâm lý muốn nhận tiền mặt ngay sau khi bán lúa, buộc doanh nghiệp phải mang theo số tiền lớn, dễ rủi ro…
Ông Nguyễn Anh Tuấn, Tổng Giám đốc Công ty cổ phần Đầu tư Green Stars chia sẻ, mong muốn của công ty là được gắn kết với các doanh nghiệp chế biến-xuất khẩu lúa gạo để tạo niềm tin và ổn định cho bà con nông dân yên tâm sản xuất, phát triển vùng nguyên liệu lúa, gạo chất lượng cao cho thị trường và xuất khẩu.