Trong khuôn khổ Hội thảo khoa học “Lý luận và thực tiễn phát triển HTX nông nghiệp ở Việt Nam trong bối cảnh mới” do Hội đồng Lý luận Trung ương và Học viện Nông nghiệp Việt Nam đồng tổ chức cuối tháng 4 năm nay, PGS TS Trần Quốc Toản đã có tham luận với tựa đề “ Phát triển kinh tế hợp tác, HTX nông nghiệp và vấn đề hoàn thiện thể chế đất đai” để lại nhiều ấn tượng đối với đại biểu tham dự.
Nhằm mở rộng trao đổi cùng bạn đọc, được sự đồng thuận của tác giả, Diễn đàn Nông thôn và Phát triển Việt Nam đã biên tập lại và trích nội dung bài viết này thành 3 kỳ đăng tải với những tiêu đề Đặc điểm liên quan đến thể chế và liên kết trong nông nghiệp; Xã hội hóa nền sản xuất nông nghiệp ở Việt Nam; và Định hướng phát triển HTX, những hình thức liên kết sản xuất kinh doanh trong nông nghiệp.
Xin trân trọng giới thiệu cùng bạn đọc
ĐẶC ĐIỂM LIÊN QUAN ĐẾN THỂ CHẾ VÀ LIÊN KẾT TRONG SẢN XUẤT NÔNG NGHIỆP
Nông nghiệp là lĩnh vực kinh tế-xã hội và môi trường đặc thù. Với nhiều điểm riêng của đối tượng sản xuất, thể chế nông nghiệp toàn cầu có những khác biệt so với nhiều lĩnh vực. Trong nền tảng cơ bản của thể chế nông nghiệp, chế định và tương tác về quyền hạn, trách nhiệm, nghĩa vụ và lợi ích của các đơn vị kinh tế, giữa các hộ nông dân và những chủ thể khác nhau đều thể hiện tính đặc thù thông qua đặc điểm của sản xuất nông nghiệp Chế định đặc thù trong thể chế phát triển và liên kết nông nghiệp
Nền nông nghiệp tiên tiến cho thấy, dù sản xuất lớn, đạt chất lượng và hiệu quả cao của những doanh nghiệp hiện đại, song chủ thể chiếm tỷ trọng cao nhất vẫn là các hộ nông dân dưới tên gọi nông trại, được khái quát trên các măt chủ yếu dưới đây:
Sản xuất nông nghiệp không phải là một ngành kinh tế thuần túy. Đây là nền kinh tế gắn bó hữu cơ giữa con người với tự nhiên, giữa nhân tố kinh tế với các yếu tố xã hội và đặc biệt là giữa những con người với nhau để hình thành những đơn vị sản xuất huyết thống, đó là hộ gia đình trong cộng đồng dân cư. Khác biệt này làm cho nền nông nghiệp tồn tại không đơn thuần là nền kinh tế, mà còn chứa đựng những yếu tố tự nhiên-xã hội, cả trong quá trình sản xuất, tiêu dùng và sinh hoạt. Đã có nhiều học giả từng coi sản xuất nông nghiệp là nền kinh tế đạo đức hay kinh tế mang tính xã hội và tương trợ.
Trong sản xuất nông nghiệp không phải lúc nào người ta cũng đặt mục tiêu lợi nhuận lên đầu, mà nó bị chi phối bởi các yếu tố và giá trị xã hội. Lợi nhuận trong sản xuất nông nghiệp thường không cao và chứa nhiều rủi ro. Đây là nhân tố ảnh hưởng mạnh đến các hình thức tổ chức sản xuất kinh doanh.
Quá trình sản xuất và tiêu dùng sản phẩm nông nghiệp trải qua những giai đoạn khác nhau, song đều gắn với thực thể sinh học cây trồng và vật nuôi là những cơ thể sống. Quá trình sinh học đòi hỏi người sản xuất nông nghiệp phải thường xuyên quan tâm với ý thức của người làm chủ, cao hơn nữa là tình yêu đồng ruộng và cây, con. Đây là yếu tố phi kinh tế, nhưng đóng vai trò quyết định đối với sản xuất. Đặc tính trên đây quy định sự phân công lao động và tổ chức sản xuất nông nghiệp không thể công đoạn hoá như trong công nghiệp, khiến sản xuất nông nghiệp ở cơ sở thường khó thoát khỏi hình thức kinh doanh gia đình và liên kết sản xuất, nhất là ở những khâu liên quan trực tiếp đến quá trình sinh học .
Đặc thù sinh học trong nông nghiệp làm cho quá trình sản xuất có sự khác biệt căn bản so với sản xuất công nghiệp. Trước hết là quá trình lao động không trùng khớp về mặt thời gian so với quá trình sản xuất. Theo trình tự, sản xuất sinh học liên tục gắn với sự phát triển của cây/con, trong khi quá trình lao động lại bị chia cắt về thời gian, mang tính thời vụ đòi hỏi cơ cấu lao động mang tính mùa vụ; khó chuyên môn hoá, tiêu chuẩn và công đoạn hoá theo cách tổ chức của sản xuất công nghiệp.
Kinh tế hộ gia đình trong nông nghiệp là sự kết hợp các đơn vị sản xuất và tiêu dùng được hình thành từ những đơn vị xã hội huyết thống. Đặc điểm này làm cho sản xuất nông nghiệp vừa mang tính hướng nội lại vừa hướng ngoại. Có thể thấy, trong nông nghiệp, kết cấu lao động, tư liệu sản xuất và đất đai là những đối tượng sản xuất không đơn thuần về mặt kinh tế hoặc của quy trình sản xuất, mà cần được xem xét trong cả quá trình tái sinh liên tục của phương thức sống và cách sản xuất của người làm chủ. Nếu tách riêng biệt từng yếu tố thì phương thức sẽ mất đi nội lực và động lực phát triển bền vững.
Mối quan hệ giữa con người với thực thể sinh học và giữa con người với con người trong quá trình sản xuất là điểm khác biệt căn bản của sản xuất nông nghiệp so với công nghiệp và dịch vụ. Khác biệt này quy định nội dung, hình thức sở hữu và cách tổ chức sản xuất. Theo đó, sản xuất nông nghiệp đã hình thành các hình thức cơ bản là hộ nông dân và những liên kết sản xuất kinh doanh mà phổ biến là hình thức hợp tác xã (HTX).
Trong nông nghiệp vai trò của công cụ sản xuất cũng mang tính đặc thù. Công cụ sản xuất nông nghiệp dù thô sơ hay hiện đại nhưng đều quan trọng và không làm mất đi tính chất sinh học của sản xuất. Các công cụ hiện đại trợ giúp cho các quá trình sinh học, làm tăng năng suất lao động và năng xuất sinh học, nhưng không làm thay đổi tính chất của sản xuất, không làm thay đổi quy luật sinh thành của đối tượng sản xuất là cây và con trong nông nghiệp.
Như vậy là, nếu trong sản xuất công nghiệp vai trò chi phối quyết định là công cụ sản xuất, thì ở sản xuất nông nghiệp đối tượng sản xuất lại có vai trò chi phối, quyết định việc ứng dụng tư liệu và công cụ sản xuất. Các đối tượng sinh học thường có quá trình sống liên tục, không thể bị chia cắt; vô chủ, đa chủ hoặc công đoạn hoá trong sản xuất. Chính đặc tính này quy định sự tồn tại lâu dài của hình thức kinh tế hộ nông dân và các hình thức hợp tác, liên kết sản xuất kinh doanh giữa các chủ thể phù hợp với đặc điểm của nông nghiệp.
Trong nông nghiệp, ruộng đất vừa là tư liệu sản xuất không gì thay thế được. Nó là đối tượng sản xuất, lại là cái kết hợp giữa lao động con người với yếu tố tự nhiên và nhân tố khác để nuôi dưỡng cây trồng, vật nuôi. Ruộng đất là địa bàn diễn ra quá trình sản xuất, nhưng cũng là cơ thể có đời sống riêng, nếu được nuôi dưỡng chăm bón, bảo tồn thì độ phì nhiêu của đất đai ngày một tăng lên để trả ơn người. Còn nếu chịu một chế độ canh tác tàn phá, bóc lột thì con người sẽ phải trả giá đắt. Chính vì vậy, sản xuất nông nghiệp đòi hỏi chủ thể sản xuất phải am hiểu toàn bộ nghề nông, điều này đặt kinh tế hộ nông dân và các chủ thể sản xuất kinh doanh trở thành những tế bào sinh động chứa đựng cả yếu tố tự nhiên, kinh tế và xã hội với tư cách của người làm chủ.
Diễn biến của quan hệ nông dân với ruộng đất đã quy định tiến trình phát triển nông nghiệp. Quan hệ giữa nông dân với ruộng đất không chỉ đơn thuần mang tính kinh tế, mà còn mang tính chính trị-xã hội và môi trường. Ruộng đất trong nền kinh tế tự cung tự cấp là điều kiện của quan hệ sinh tồn; khi chuyển sang nền nông nghiệp hàng hoá, ruộng đất là điều kiện của sản xuất, là hàng hóa để thực hiện lợi ích kinh tế thông qua cơ chế thị trường. Chuyển từ nông nghiệp tự cung tự cấp sang nông nghiệp hàng hoá, quan hệ nông dân và ruộng đất có sự thay đổi về chất. Trao quyền làm chủ ruộng đất cho nông dân, đồng thời mở đường cho ruộng đất tìm đến những người chủ có khả năng sử dụng hiệu quả, chính là tạo tiền đề cho bước chuyển về chất trong quan hệ từ sinh tồn thuần tuýsang kinh tế hàng hóa là cơ bản. Trong điều kiện này, các yếu tố sản xuất sẽ vận động theo hướng thoát ra khỏi trạng thái khép kín, đi vào liên kết, hợp tác, tích tụ để sử dụng với hiệu quả cao hơn.
Hộ nông dân tồn tại với tư cách là một đơn vị sản xuất và tiêu dùng mang tính đặc thù, dẫn đến sự tồn tại khách quan của đơn vị kinh tế hộ. Thời gian khởi đầu Mác và Ăng ghen dự đoán con đường phát triển sản xuất nông nghiệp sẽ diễn ra cùng kiểu với công nghiệp để hình thành các xí nghiệp tư bản với lao động làm thuê, nhưng sau khi nghiên cứu thực tiễn nông nghiệp nhiều nước Âu, Mỹ các ông đã nhận ra, nông trại gia đình không sử dụng lao động làm thuê kiểu tư bản chủ nghĩa và cho rằng “Lịch sử có thể xem xét nghề nông hợp lý, nó đòi hỏi phải có bàn tay của người tiểu nông làm bằng sức lao động của chính mình, hoặc bằng sự kiểm soát của những người sản xuất có liên kết với nhau “.
2. Kinh tế hộ nông dân - đơn vị kinh tế tự chủ cơ bản
Cho đến ngày nay, nông nghiệp gia đình vẫn được hiểu là đại diện cho hình thức sản xuất nông nghiệp chủ yếu để tạo nguồn lương thực thực phẩm cho toàn xã hội. Theo tổ chức FAO, Nông nghiệp gia đình dựa vào nguồn vốn, lao động của gia đình và được điều hành bởi một gia đình. Gia đình và trang trại có mối liên hệ chặt chẽ với nhau; hộ gia đình cung cấp lực lượng lao động và kiểm soát những nguồn lực chính mà trang trại dựa vào để hoạt động.
Thực tiễn phát triển nền nông nghiệp thế giới cho thấy, trong cấu trúc của hệ thống chủ thể tham gia sản xuất, dù đạt tới nền nông nghiệp tiên tiến, hiện đại, thì đơn vị kinh tế hộ nông dân vẫn là những đơn vị cơ sở chiếm số lượng lớn nhất. Sự phát triển của các loại hình HTX và doanh nghiệp về cơ bản đều dựa trên nền tảng của sự phát triển kinh tế hộ nông dân với những quy mô và trình độ khác nhau. Đặc điểm cơ bản nhất của phương thức sản xuất hộ nông dân hay nông nghiệp gia đình là dựa trên sử dụng lao động gia đình, chỉ thuê một phần nhỏ lao động.
Mác và Ăngghen, khi nghiên cứu con đường công nghiệp hóa đặc thù của nước Anh đã dự báo nền nông nghiệp sẽ xã hội hóa và tổ chức thành nền đại sản xuất theo kiểu công nghiệp. Nhưng sau này, khi nghiên cứu sâu hơn về sự phát triển của nông nghiệp nước Anh và nhiều nước khác, 2 ông đã nhận ra tính chất đặc thù và đã rút ra Nông trại gia đình không sử dụng lao động làm thuê đã tỏ rõ sức sống lâu bền và và rất hiệu quả. Ngay tại nước Anh siêu công nghiệp, người ta đã từng khẳng định, hình thức lãi nhất không phải là nông trại kinh doanh theo phương thức công nghiệp mà là nông trai gia đình thực sự không dùng lao động làm thuê. Các ông cho rằng đó chính là “Nghề nông hợp lý”.
Khi xem xét con đường phát triền nông nghiệp nước Nga, và trong thực hiện “Chính sách kinh tế mới” Lênin đã nhận định “Không thể phát triển nông nghiệp theo con đường chủ nghĩa tư bản kiểu Phổ vì đó là kiểu phát triển kém hiệu quả, mà phải là kiểu chủ trại tự do trên mảnh đất tự do, nghĩa là mảnh đất đó được dọn sạch khỏi những tàn tích trung cổ” và cho rằng, nông nghiệp không thể phát triển theo cùng kiểu với công nghiệp.
Trong quả trình phát triển, do đặc điểm của sản xuất, đơn vị kinh tế hộ nông dân mang những đặc điểm chủ yếu dưới đây:
i) - Kinh tế hộ nông dân hàm chứa trong mình 3 tư cách quan hệ mật thiết hữu cơ với nhau trên tất cả các phương diện kinh tế và phi kinh tế, vật chất và phi vật chất, đó là đơn vị sản xuất, đơn vị tiêu dùng và đơn vị xã hội huyết thống;
ii) -Trong quá trình phát triển hộ kinh tế nông dân có phân hóa, phân tầng thành các loại hộ khác nhau. Xét theo trình độ sản xuất hàng hóa có thể phân thành những loại sau đây:
1.Hộ sản xuất tự cung tự cấp.
Đối với những hộ dạng này, đất đai, vốn và nguồn lực về cơ bản không tham gia vào quan hệ thị trường. Với tư cách là đơn vị sản xuất và tiêu dùng hầu như không có sự đối thoại với thị trường, nếu có thì cũng chỉ là do nhu cầu bức thiết phải bán bớt một phần nông sản để đổi lấy những nhu yếu phẩm cần thiết. Hộ nông dân tự cung tự cấp có cơ sở kinh tế giống nhau, phương thức sản xuất và sản phẩm làm ra như nhau, hầu như không tạo nên các mối quan hệ kinh tế với nhau và với xã hội; đây chính là điểm trì trệ lớn nhất của nền kinh tế tiểu nông tự cung tự cấp.
2. Hộ sản xuất hàng hoá nhỏ.
Loại hộ này làm ra sản phẩm chủ yếu là để tiêu dùng trực tiếp trong gia đình, số lượng đưa ra lưu thông trên thị trường chiếm tỷ lệ nhỏ và không đáng kể. Trong hộ nông dân dạng này, sản xuất lương thực để tồn tại là mục tiêu và là nội dung cơ bản nên ruộng đất ít có cơ sở để trở thành hàng hóa, nông sản làm ra chưa theo quan hệ cung cầu của thị trường Tính phi hiệu quả của nông hộ dạng này thể hiện ở ruộng đất không được sử dụng đúng với tính năng và tiềm năng sinh học đông thời đó cũng là nguyên nhân sâu xa kìm hãm quá trình phân công lao động xã hội,
3. Hộ sản xuất hàng hóa là chủ yếu
Sản xuất của loại hộ này hướng tới mục tiêu thị trường nhưng vẫn giữ một phần sản phẩm để tiêu dùng trực tiếp như một chiếc van an toàn. Do hướng theo thị trường nên các yếu tố đầu vào và đầu ra được tính toán trong sản xuất và kinh tế hộ đã bắt đầu phá vỡ vỏ bọc khép kín của mình. Quá trình trên đây tất yếu dẫn đến thúc đẩy chuyên môn hóa và phân công lao động cũng như khai thác đất đai một cách hiệu quả. Đất đai dần thoát ra khỏi chức năng đảm bảo lương thực sinh tồn của kinh tế hộ để nhận một chức năng mới là nguồn vốn phát triển, nấc thang quan trọng của quan hệ ruộng đất và kinh tế hộ nông dân.
4. Hộ sản xuất hàng hoá hoàn toàn.
Đặc trưng kinh tế của loại hộ này là sản xuất theo nhu cầu và thông qua thị trường; quy mô của sản xuất thường do thị trường điều tiết. Mục tiêu của hộ sản xuất hàng hóa hoàn toàn hướng theo nhu cầu thị trường và lợi nhuận; mọi yếu tố của quá trình được xem xét trên cơ sở giá trị; sức lao động và đất đai đều trở thành đầu vào trực tiếp và bị chi phối bởi các quy luật của kinh tế thị trường.
Đi vào sản xuất, do điều kiện và năng lực có sự phân hoá giữa các hộ cả về trình độ, quy mô sản xuất kinh doanh và nghề nghiệp (ai giỏi về nghề sẽ làm nghề đó). Đây chính là lý do cơ bản làm cho quan hệ đất đai và các yếu tố sản xuất có sự năng động, hướng tới hiệu quả sử dụng cao để thích ứng với tác động của cơ chế thị trường.
Đối với hộ sản xuất hàng hoá, các yếu tố đất đai, tư liệu sản xuất, vốn và lao động là những điều kiện quan trọng, song yếu tố quyết định lại là năng lực sản xuất kinh doanh của các chủ hộ nông dân. Sự khác biệt về năng lực sản xuất kinh doanh là một trong những nhân tố cơ bản quyết định mức độ ruộng đất tham gia vào quá trình sản xuất. Có những nông hộ phát triển đi lên, tích tụ ruộng đất và mở rộng quy mô canh tác, nhưng lại có nhiều hộ không phát triển, thậm chí giảm quy mô hoặc sang nhượng ruộng đất, chuyển sang lĩnh vực kinh doanh khác.
Trong nền kinh tế thị trường, dưới tác động của các quá trình công nghiệp hóa hiện đại hóa, đô thị hóa và phát triển nông sản hàng hóa đã diễn ra quá trình phân hóa, đào thải, phân tầng; chuyên môn hóa, đa dạng hóa và tích tụ, tập trung ruộng đất để mở rộng quy mô canh tác của kinh tế hộ nông dân. Phát triển, phân tầng, phân hóa hộ nông dân chính là quá trình tạo cơ sở cho sự ra đời khách quan, đa dạng, đa tình độ và đa quy mô của các hình thức liên kết hợp tác sản xuất kinh doanh trong ngành nông nghiệp.