Theo UBND tỉnh Vĩnh Long, trong 9 tháng của năm 2025, tình hình kinh tế – xã hội tiếp tục đạt nhiều kết quả tích cực. Tăng trưởng GRDP ước đạt 6,33%; riêng khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản tăng 3,83%, đóng góp 5,36% vào mức tăng chung toàn nền kinh tế. Mục tiêu Vĩnh Long phấn đấu đạt mức tăng trưởng GRDP 7,5% trong năm 2025. Trong bối cảnh thời tiết diễn biến bất lợi, nhiều loại cây trồng giảm diện tích và sản lượng, kết quả này phản ánh rõ nỗ lực tái cơ cấu ngành nông nghiệp theo hướng bền vững.
Theo quy hoạch, mục tiêu đến năm 2030, Vĩnh Long là tỉnh nông nghiệp công nghệ cao, sinh thái; một trong những trung tâm kinh tế nông nghiệp của vùng Đồng bằng sông Cửu Long. Ảnh: Internet.
Nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao góp phần tăng năng suất, giảm rủi ro
Tại nhiều địa phương trong tỉnh, các mô hình sản xuất nông nghiệp công nghệ cao, nông nghiệp hữu cơ và nông nghiệp tuần hoàn đã và đang phát huy hiệu quả rõ rệt. Nông dân và hợp tác xã (HTX) từng bước vượt qua mô hình canh tác nhỏ lẻ, manh mún để tiếp cận kỹ thuật hiện đại. Nhiều đơn vị đã mạnh dạn đầu tư hệ thống máy móc tiên tiến như máy bay không người lái (drone), máy sạ hàng theo cụm, thiết bị giám sát côn trùng, hệ thống cảm biến theo dõi khí hậu, phát thải khí methane, v.v.
Đại diện HTX Nông nghiệp Phước Hảo (xã Hưng Mỹ) cho biết: “Toàn bộ quá trình canh tác lúa hiện nay từ sạ, phun xịt đến thu hoạch đều được cơ giới hóa. Việc theo dõi sâu bệnh, côn trùng cũng được thực hiện qua điện thoại thông minh, giúp tiết kiệm đáng kể chi phí và tăng hiệu quả sản xuất.”
Trong khi đó, HTX Chôm chôm xã An Bình đã đẩy mạnh chuyển đổi số từ khâu quản lý phân thuốc đến truy xuất nguồn gốc sản phẩm, kết nối với người tiêu dùng thông qua các sàn thương mại điện tử. Đây là bước tiến quan trọng trong việc xây dựng chuỗi giá trị nông sản minh bạch, tin cậy và có thương hiệu.
Quy trình sản xuất tiên tiến như “1 phải, 5 giảm” và “3 giảm, 3 tăng” được áp dụng rộng rãi trong các mô hình trồng lúa, giúp giảm giống, phân bón, thuốc bảo vệ thực vật và công lao động, đồng thời tăng năng suất, chất lượng và lợi nhuận. Việc sử dụng giống lúa xác nhận, phân vi sinh, kỹ thuật canh tác sạ thưa… không chỉ cải thiện chất lượng sản phẩm mà còn góp phần bảo vệ môi trường sinh thái.
Song song với đó, các HTX đã tận dụng nền tảng mạng xã hội như Zalo, Facebook để truyền thông kỹ thuật, cập nhật thông tin về dịch hại, thời tiết và thị trường, giúp nông dân kịp thời điều chỉnh sản xuất. Tỉnh cũng đẩy mạnh công nhận sản phẩm OCOP. Từ đầu năm đến nay, Vĩnh Long công nhận mới 52 sản phẩm OCOP; lũy kế đến nay toàn tỉnh có 1.006 sản phẩm đạt chứng nhận OCOP (826 sản phẩm đạt 3 sao; 164 sản phẩm đạt 4 sao; 6 sản phẩm tiềm năng 5 sao; 10 sản phẩm đạt 5 sao), trong đó 100% sản phẩm được đưa lên các sàn thương mại điện tử nội địa – đúng như mục tiêu đề ra trong Kế hoạch chuyển đổi số năm 2025 (QĐ số 2808/QĐ-UBND).
Có được kết quả trên một phần là do các địa phương của Vĩnh Long đã chú trọng áp dụng, triển khai các mô hình sản xuất nông nghiệp công nghệ cao, nông nghiệp tuần hoàn và sản xuất theo hướng hữu cơ, ứng dụng số hóa trong sản xuất đã mang lại hiệu quả rõ nét.
Nông dân đã từng bước vượt qua rào cản sản xuất nhỏ lẻ, manh mún, thiếu liên kết, canh tác chủ yếu vẫn dựa theo phương pháp truyền thống, mà thay vào đó, nhiều nông dân, HTX đã trang bị nhiều hệ thống máy móc hiện đại để phục vụ sản xuất, như máy bay không người lái, máy sạ hàng theo cụm, hệ thống giám sát phát thải khí methane, hệ thống giám sát côn trùng thông minh...
Hướng đến nền nông nghiệp thông minh, xanh và hiệu quả
Việc ứng dụng khoa học – công nghệ trong sản xuất nông nghiệp không chỉ mang lại hiệu quả kinh tế rõ rệt mà còn tạo tiền đề phát triển bền vững. Theo đánh giá của ngành nông nghiệp tỉnh, những tiến bộ từ công nghệ số, cơ giới hóa đến tự động hóa đang đóng vai trò ngày càng quan trọng trong việc tăng năng suất, nâng cao giá trị nông sản và giảm thiểu tác động tiêu cực từ biến đổi khí hậu.
Vĩnh Long xác định trong thời gian tới sẽ tiếp tục:
Nhân rộng các mô hình sản xuất hữu cơ, tuần hoàn;
Khuyến khích sử dụng thiết bị tưới tiết kiệm, công nghệ không người lái;
Thử nghiệm và nhân rộng giống cây trồng vật nuôi chất lượng cao;
Phát triển hệ thống truy xuất nguồn gốc, chuỗi cung ứng số hóa;
Nâng cao năng lực cho HTX, tổ hợp tác và nông dân trong tiếp cận công nghệ mới.
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả tích cực, quá trình ứng dụng công nghệ và chuyển đổi số trong nông nghiệp tại Vĩnh Long vẫn còn nhiều thách thức. Hạ tầng kỹ thuật phục vụ sản xuất nông nghiệp công nghệ cao chưa đồng bộ; cơ giới hóa ở một số nơi còn ở mức thấp; chi phí đầu tư ban đầu cho công nghệ hiện đại vẫn là rào cản lớn đối với nhiều hộ sản xuất quy mô nhỏ.
Ngoài ra, yếu tố con người cũng đóng vai trò quan trọng. Một bộ phận nông dân vẫn còn e ngại hoặc chưa đủ năng lực để vận hành, sử dụng thiết bị công nghệ hiện đại. Do đó, tỉnh cần tiếp tục đẩy mạnh công tác tuyên truyền, đào tạo, hỗ trợ kỹ thuật và kết nối đầu ra để tạo động lực cho người dân đổi mới tư duy, mạnh dạn đầu tư và chủ động tham gia vào chuỗi giá trị nông nghiệp hiện đại.
Có thể khẳng định, việc đẩy mạnh ứng dụng khoa học – công nghệ và cơ giới hóa đang trở thành hướng đi tất yếu của nông nghiệp Vĩnh Long trong thời kỳ mới. Những kết quả đạt được trong thời gian qua là minh chứng cho định hướng đúng đắn của địa phương, đồng thời là nền tảng để tiếp tục phát triển nông nghiệp theo hướng hiện đại, an toàn, thân thiện với môi trường và có khả năng cạnh tranh cao trên thị trường trong nước và quốc tế.
V.X.B