“VUA VŨ KHÍ” VIỆT NAM VÀ “MÓN QUÀ” DÀNH TẶNG CHO CÁC SIÊU CƯỜNG!

Câu chuyện của chúng ta không bắt đầu trên chiến trường khốc liệt, mà ở một vùng quê nghèo khó tại Vĩnh Long. Cậu bé Phạm Quang Lễ mồ côi cha từ năm lên sáu, nhưng trong tâm hồn nhỏ bé ấy đã nhen nhóm một ngọn lửa lớn: hoài bão giúp đời, giúp dân. Lời dặn dò cuối cùng của cha, sự hy sinh thầm lặng của mẹ và chị gái đã trở thành những "lưỡi gươm" vô hình, thôi thúc cậu bé vượt qua bao gian khó.

Năm 1946, khi Bác Hồ trở về nước, vị kỹ sư tài ba Phạm Quang Lễ, lúc đó đang sống đủ đầy tại Pháp với mức lương 22 lạng vàng một tháng, đã đưa ra một quyết định lịch sử. Ông đã chọn con đường chông gai, từ bỏ danh vọng để theo Bác về Việt Nam. Bác Hồ đã đặt cho ông một cái tên mới: Trần Đại Nghĩa. Từ khoảnh khắc đó, một huyền thoại về "vua vũ khí" đã được viết nên.

Bazoka Và SKZ: Đòn Giáng Đầy Bất Ngờ Vào Đồ Bê-tông Của Pháp

Việc đầu tiên mà Thiếu tướng Trần Đại Nghĩa phải đối mặt là tạo ra vũ khí cho một quân đội tay không. Trong các hang núi cheo leo của chiến khu Việt Bắc, giữa khói bụi và tiếng búa đập, ông cùng các kỹ sư ngày đêm nghiên cứu. Quân Pháp lúc đó đang tự mãn với những chiếc xe tăng, những lô cốt kiên cố bằng bê-tông, coi đó là lá chắn thép bất khả xâm phạm.

img-6970-1756993131.jpeg
Bác Hồ và Thiếu tướng Trần Đại Nghĩa. Ảnh TL

Một đêm mưa rừng, một đội trinh sát mang về một quả đạn Bazoka của Mỹ mà họ thu được. Đạn bị hư hỏng nặng, nhưng Tướng Nghĩa nhìn nó như nhìn thấy một cơ hội. "Đây rồi!", ông reo lên. Từng bộ phận của quả đạn được mổ xẻ, nghiên cứu. Rất nhiều lần thử nghiệm thất bại. Có lần, quả đạn phát nổ ngay trong nòng súng, suýt nữa cướp đi sinh mạng của cả đội nghiên cứu. Dù vậy, Tướng Nghĩa vẫn kiên định. 

Cuối cùng, một ngày tháng 2/1947, quả đạn Bazoka "made in Việt Nam" đã ra đời, với sức xuyên 75cm tường gạch. Quân ta mang Bazoka ra trận, không chỉ phá hủy xe tăng, mà còn dùng để bắn lô cốt, tàu chiến. "Đạn Bazoka Việt Minh là một thứ quái vật!", một ký giả Pháp đã phải thốt lên khi chứng kiến tàu chiến của họ bị đánh chìm trên sông Lô.

img-6967-1756992805.webp
GS Trần Đại Nghĩa (đeo kính) và Đại tướng Võ Nguyên Giáp tại Triển lãm vũ khí của ngành quân giới, năm 1950 (Ảnh: Chụp tư liệu).

Để đối phó với những pháo đài bê-tông dày hơn, Tướng Nghĩa tiếp tục nghiên cứu súng không giật SKZ. Có lần, một sĩ quan Pháp đã khoe khoang: "Không có vũ khí nào ở Đông Dương có thể xuyên qua được lô cốt của chúng tôi". 

Tướng Nghĩa đã nghe được lời thách thức ấy. Ông và các đồng sự làm việc cật lực để hoàn thiện SKZ. Khi nó được đưa vào trận chiến Phố Ràng, chỉ với vài phát bắn, lô cốt tưởng chừng bất khả xâm phạm của Pháp đã sụp đổ. Những lời nói khoe khoang của sĩ quan Pháp bỗng chốc trở thành câu chuyện tiếu lâm trong quân đội Pháp.

Khắc chế “pháo đài bay B-52” bằng trí tuệ và lòng can đảm

Sau khi đánh bại quân Pháp, một cuộc chiến khác lại ập đến. Lần này, Việt Nam phải đối mặt với một siêu cường quân sự khác: Hoa Kỳ, với những vũ khí hiện đại nhất thế giới. Nổi bật trong số đó là "pháo đài bay" B-52, được mệnh danh là bất khả xâm phạm.

"Máy bay B-52 của chúng ta bay cao hơn 10.000m, đối phương không thể nào với tới. Đây sẽ là một cuộc dạo chơi trên bầu trời phương Đông", một chỉ huy Mỹ đã trấn an phi công của mình như vậy.

img-6968-1756993232.webp
Giáo sư Trần Đại Nghĩa (đứng giữa đeo kính) thời kỳ học ở Pháp (Ảnh Tư liệu gia đình cung cấp).

Nhưng Bác Hồ, với tầm nhìn xa trông rộng, đã tiên đoán: "Mỹ sẽ chỉ chịu thua trên bầu trời Hà Nội". Bác đã giao nhiệm vụ cho Tướng Nghĩa và các nhà khoa học, bộ đội phòng không nghiên cứu cách chống B-52. Những chiếc tên lửa SAM2 được Liên Xô viện trợ, ban đầu gặp nhiều khó khăn khi đối phó với hệ thống gây nhiễu tinh vi của Mỹ.

Để phá giải, Tướng Nghĩa đã chỉ đạo các kỹ sư và bộ đội phải làm việc ngày đêm. Họ đã làm giả các trận địa tên lửa bằng cót ép để đánh lừa đối phương, buộc máy bay Mỹ phải ném bom vào "mục tiêu ma". Khi Mỹ dùng tên lửa tự dẫn Shrike để tấn công radar của ta, các nhà khoa học Việt Nam đã tìm ra một "lời giải" đầy bất ngờ: chỉ bật radar trong khoảng thời gian cực ngắn, không đủ để Shrike khóa mục tiêu. 

Khi Mỹ nâng cấp lên AGM-78 với bộ nhớ, ta lại tiếp tục thay đổi tần số radar liên tục, biến bộ nhớ của AGM-78 trở nên vô dụng. Tình hình chiến trường đã chứng minh, không có "pháo đài bay" nào là bất khả xâm phạm trước trí tuệ của con người Việt Nam.

“Món quà” dành tặng cho các siêu cường

Câu chuyện về những vũ khí của Tướng Trần Đại Nghĩa không chỉ là câu chuyện về kỹ thuật, mà còn là câu chuyện về lòng dũng cảm, sự sáng tạo và tinh thần yêu nước. Ông đã biến những vật liệu thô sơ, những kiến thức uyên bác thành vũ khí đánh giặc, trở thành biểu tượng của trí tuệ Việt Nam trong cuộc chiến không cân sức với các siêu cường.

Và có lẽ, món quà lớn nhất mà Tướng Trần Đại Nghĩa và các cộng sự đã dành tặng cho các siêu cường chính là sự bất ngờ. Bất ngờ trước một đất nước nhỏ bé, thiếu thốn lại có thể sản xuất vũ khí. Bất ngờ trước một dân tộc tưởng chừng yếu thế nhưng lại tìm ra cách khắc chế những vũ khí hiện đại bậc nhất. Sự bất ngờ ấy đã khiến họ phải thay đổi chiến lược, và cuối cùng phải chấp nhận thất bại.

img-6972-1756993592.jpeg

Chiều 30/4/1975, ít giờ sau khi miền Nam hoàn toàn giải phóng, đất nước thống nhất, Tướng Trần Đại Nghĩa đã ghi vào sổ tay: “Nhiệm vụ của Bác giao cho tôi và tập thể các nhà khoa học Việt Nam là tham gia về mặt vũ khí và khoa học quân sự trong hai cuộc kháng chiến đã được hoàn thành. Từ nay đến hàng nghìn năm sau, chúng tôi xin bàn giao lại nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc cho thế hệ ngày nay và thế hệ mai sau”.

Câu chuyện về những vũ khí của Tướng Trần Đại Nghĩa không chỉ là câu chuyện về kỹ thuật, mà còn là câu chuyện về lòng dũng cảm, sự sáng tạo và tinh thần yêu nước. Ông đã biến những vật liệu thô sơ, những kiến thức uyên bác thành vũ khí đánh giặc, trở thành biểu tượng của trí tuệ Việt Nam trong cuộc chiến không cân sức với các siêu cường.

GS Trần Đại Nghĩa (1913-1997) là Cục trưởng đầu tiên của Cục Quân giới. Sau năm 1954, ông giữ các chức vụ: Phó Chủ nhiệm Tổng Cục Hậu cần,  Phó Chủ nhiệm Tổng Cục Kỹ thuật, Bộ Quốc phòng (1966-1977).

Bên cạnh lĩnh vực quân sự, trong lĩnh vực dân sự, ông cũng giữ các chức vụ: Thứ trưởng Bộ Công Thương (1951-1960), Thứ trưởng Bộ Công nghiệp nặng (1960-1963), Chủ nhiệm Ủy ban Kiến thiết Cơ bản Nhà nước (1963-1972). Ông là Đại biểu Quốc hội khóa II, III. Ông cũng là giám đốc đầu tiên của Trường Đại học Bách khoa.

Trong lĩnh vực khoa học, ông từng giữ các trọng trách: Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học và Kỹ thuật Nhà nước, Viện trưởng Viện Khoa học Việt Nam, Chủ tịch đầu tiên của Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam. Ngày 8/2/1966, ông được vinh dự tặng danh hiệu Viện sĩ Viện Hàn lâm Khoa học Liên Xô.

Năm 1996, ông được Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam trao tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh đợt 1 về Cụm công trình nghiên cứu và chỉ đạo kỹ thuật chế tạo vũ khí (bazooka, súng không giật, đạn bay) trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp (1945-1954). Trước đó, ông cũng được Đảng và Nhà nước trao tặng Huân chương Hồ Chí Minh, Huân chương Quân công hạng Ba và Huân chương Quân công hạng Nhất, Huân chương Kháng chiến hạng Nhất.