Chuyển dịch năng lượng bền vững tại Việt Nam

Nongthonvaphattrien - Với chủ đề cùng nhau chuyển dịch Năng lượng Bền vững, hạ tuần tháng 01năm 2022, Hội nghị cấp cao lần thứ 4 bhóm Đối tác Năng lượng Việt Nam (VEPG) đã diễn ra tại Hà Nội.

VEPG được thành lập vào tháng 6 băm 2017 theo thỏa thuận giữa Chính phủ và các đối tác, hướng đến sử dụng hiệu quả sự hỗ trợ quốc tế cho phát triển năng lượng bền vững ở Việt Nam. Thứ trưởng Bộ Công Thương Đặng Hoàng An đã chủ trì Hội nghị. Tham gia đồng chủ trì còn có Ông Giorgio Aliberti, Đại sứ Liên minh Châu Âu tại Việt Nam và Bà Carolyn Turk, Giám đốc Quốc gia Ngân hàng Thế giới tại Việt Nam,

Hội nghị có sự tham gia của các đại diện cấp cao từ Chính phủ Việt Nam, các đối tác phát triển, khu vực tư nhân, tổ chức phi chính phủ và các cơ quan nghiên cứu theo hình thức trực tiếp kết hợp trực tuyến. nhằm đảm bảo sự tham gia rộng rãi của các bên liên quan, đồng thời tuân thủ quy định về an toàn sức khỏe trong bối cảnh đại dịch Covid-19.

11-1644370508.jpg
Chuyển dịch năng lượng bền vững tại Việt Nam

Hội nghị lần đánh dấu một chặng đường mới của VEPG, tập trung vào thực hiện mục tiêu chuyển dịch năng lượng bền vững tại Viêt Nam. Bên cạnh tuyên bố chính thức về định hướng mới của VEPG, hội nghị còn cung cấp những thông tin hữu ích về tầm nhìn chiến lược của Việt Nam hướng tới quá trình chuyển dịch năng lượng bền vững dưới sự chỉ đạo của Bộ Công Thương cùng sự hỗ trợ của các chuyên gia trong nước và quốc tế.

Hội nghị đã tổng kết thành công của nhóm Đối tác Năng lượng  trong hơn 4 năm hoạt động với vai trò là diễn đàn đối thoại chính sách cấp cao, kết nối Chính phủ Việt Nam với các đối tác phát triển và các bên liên quan nhằm thúc đẩy sự phát triển của ngành năng lượng. Tại Hội nghị kỳ này , Ban tổ chức cũng đã công bố 5 nhóm công tác kỹ thuật mới bao gồm: Quy hoạch chiến lược ngành điện; Năng lượng Tái tạo; Tích hợp lưới điện & Hạ tầng lưới điện; Hiệu quả Năng lượng và Thị trường Năng lượng.

Với thông điệp “Cùng nhau, chuyển dịch năng lượng bền vững tại Việt Nam” Đối tác Năng lượng Việt Nam đã khẳng định mục tiêu của nhóm là tiếp tục đảm bảo sự hợp tác chặt chẽ, hỗ trợ hiệu quả để góp phần định hình quá trình chuyển dịch năng lượng quốc gia ở Việt nam.

Chuyển dịch năng lượng vấn đề đặt ra từ hội nghị cấp cao của nhóm đối tác năng lượng

Nhìn lại chặng đường đã qua, Hội nghị nhận thấy, năm 2021 là năm đầu tiên thực hiện Nghị quyết Đại hội lần thứ XIII của Đảng Cộng sản Việt Nam, đồng thời cũng là năm nỗ lực triển khai, thực hiện Nghị quyết số 55-NQ/TW ngày 11 tháng 02 năm 2020 của Bộ Chính trị về định hướng Chiến lược phát triển năng lượng quốc gia đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045. Đến tháng 3 năm 2021, Bộ Công Thương đã hoàn thiện và chính thức trình Chính phủ Đề án Quy hoạch điện VIII. Theo đó, ngành năng lượng Việt Nam nói chung và ngành điện nói riêng đã đứng trước nhiều khó khăn thách thức do đại dịch Covid-19 gây ra đối với các ngành sản xuất kinh doanh; BĐKH khó lường; thiên tai xuất hiện thường xuyên trong khi đất nước cần tập trung vào chuyển dịch năng lượng bền vững, đảm bảo cung cấp đầy đủ điện năng và đầu tư phát triển theo định hướng tăng trưởng xanh.

Tại Hội nghị BĐKH toàn cầu COP 26 tại Glasgow (Scoland), Thủ tướng Phạm Minh Chính đã cam kết Việt Nam sẽ xây dựng và triển khai các biện pháp giảm phát thải khí nhà kính mạnh mẽ bằng nguồn lực của mình, cùng với sự hợp tác và hỗ trợ của cộng đồng quốc tế cả về tài chính và chuyển giao công nghệ. Thực hiện theo cơ chế của Thỏa thuận Paris, Viêt Nam hướng đến đạt mức phát thải ròng bằng "0" vào năm 2050. Để đạt đươc những mục tiêu cam kết của Thủ tướng Chính phủ, đòi hỏi phảỉ ngành năng lượng phải hành động kịp thời với sự phối hợp đồng bộ của các ngành, các cấp để đảm bảo tiến trình chuyển dịch năng lượng bền vững, hướng tới kinh tế xanh, tuần hoàn; lấy người dân làm trung tâm, không để ai bị bỏ lại phía sau.

Thứ trưởng Bộ Công thương Đặng Hoàng An cho biết, Bộ này đã được giao nhiệm vụ xây dựng Quy hoạch điện VIII với nội dung bám sát định hướng được chỉ ra trong Nghị quyết số 55-NQ/TW của Bộ Chính trị, đặc biệt là những vấn đề đề liên quan đến cơ cấu ngành điện, nguồn điện với sự đồng bộ của hệ thống phát điện và hạ tầng chuyển tải. Ông khẳng định “Với vai trò của một Diễn đàn đối thoại cấp cao giữa Chính phủ Việt Nam và các đối tác quốc té, kết nối sự hỗ trợ quốc tế nhằm thúc đẩy phát triển thị trường năng lượng tái tạo tại Việt Nam; VEPG đã tái cơ cấu các nhóm công tác kỹ thuật, xác định những chủ đề trọng tâm phù hợp với nhu cầu cấp thiết của quốc gia cũng như tận dụng được các nguồn lực hỗ trợ từ trong và ngoài nước. Cùng với các Bộ, Ban, Ngành và các đối tác trong và ngoài nước, VEPG đã hỗ trợ Chính phủ xây dựng biện pháp giảm phát thải khí nhà kính mạnh mẽ nhằm đạt mức phát thải ròng bằng 0  vào năm 2050.”

Thay mặt Liên minh Châu Âu tại Việt Nam, Đại sứ Giorgio Aliberti cho biết: “Việt Nam tham gia vào quá trình chuyển dịch năng lượng theo hướng xây dựng cơ cấu năng lượng xanh hơn, sạch hơn và sử dụng năng lượng hiệu quả hơn là một đóng góp quan trọng, không chỉ phục vụ sự phát triển bền vững kinh tế đất nước mà còn đóng góp vào cuộc chiến chống lại BĐKH toàn cầu. Liên minh Châu Âu cũng như các đối tác phát triển khác hỗ trợ quá trình chuyển dịch năng lượng này, đồng thời đảm bảo khả năng tiếp cận năng lượng với chi phí hợp lý cho tất cả mọi người và bảo vệ khả năng cạnh tranh của Việt Nam ở cấp địa phương cũng như quốc tế”, Ông nhấn mạnh, Liên minh châu Âu sẽ tiếp tục hỗ trợ tài chính cho hoạt động của VEPG và sẽ phối hợp với Bộ Công Thương để xây dựng lộ trình tài chính bền vững và lâu dài cho quan hệ đối tác và hy vọng VEPG sẽ tiếp tục là nền tảng hữu ích và độc đáo trong hoạt động điều phối hoạt động đối thoại và hành động giúp Việt Nam hoàn thành nục tiêu chuyển dịch năng lượng.

Trong những thập niên qua, ngành năng lượng đã đóng vai trò nền tảng trong thúc đẩu tăng trưởng kinh tế nhanh chóng và bao trùm. Từ góc nhìn Ngân hàng Thế giới, Carolyn Turk, Giám đốc Quốc gia tại Việt Nam cho rằng “Vào thập kỷ tới, ngành năng lượng cần phát thải ít các-bon hơn và dần loại bỏ nhiên liệu hóa thạch, một nguồn nhiên liệu tạo ra lượng phát thải khí nhà kính lớn nhất. Chúng ta phải làm điều này trong bối cảnh vừa phải duy trì đáp ứng nhu cầu sử dụng năng lượng với chi phí hợp lý, đồng thời vẫn đảm bảo sự ổn định về tài chính, tạo động lực phát triển ngành’. Để thực hiện được những mục tiêu trên đây, Bà nhấn mạnh. Ngân hàng Thế giới mong muốn được tiếp tục hỗ trợ Chính phủ Việt Nam tăng cường phát triển ngành năng lượng xanh hơn và bền vững hơn.

Trong những phiên thảo luận chuyên đề, đại diện đến từ nhiều tổ chức khác nhau đã tích cực  tham gia trao đổi xoay quanh các chủ đề như Quy hoạch điện VIII theo định hướng chuyển dịch năng lượng bền vững của Chính phủ; tác động và kết quả của Hội nghi lần thứ 26 các bên tham gia Công ước khung của Liên Hợp Quốc về BĐKH (COP26) đối với định hướng của ngành năng lượng, Thông qua trao đổi, nhiều kinh nghiệm quốc tế và khuyến nghị đã được chia sẻ nhằm tháo gỡ những khó khăn về kỹ thuật và  thúc đẩy đầu tư trong chuyển dịch năng lượng bền vững,

Với góc nhìn đa chiều, các nhà quản lý trong nước và quốc tế nhận thấy, năng lượng đang đóng vai trò vô cùng quan trọng trong phát triển kinh tế-xã hội của các quốc gia. Việt Nam là một nền kinh tế năng động với tốc độ tăng trưởng cao trong nhiều năm liên tục. Dù gặp nhiều khó khăn, thách thức từ đại dịch COVID-19, song Việt Nam vẫn duy trì được tăng trưởng dương và có thành công ấn tượng về hoạt động xuất nhập khẩu. Để đạt được mục tiêu phát triển kinh tế bền vững, Chính phủ Việt Nam đã đẩy mạnh và quyết tâm thực hiện chuyển đổi ngành năng lượng trên cơ sở phát huy nội lực, đồng thời tăng cường sự hợp tác, hỗ trợ từ các đối tác phát triển. Theo Thứ trưởng Đặng Hoàng An, từ những chính sách khuyến khích của Chính phủ, nguồn năng lượng tái tạo đã có sự phát triển mạnh mẽ. Hết năm 2021, tổng công suất năng lượng tái tạo đạt 20.670 MW, chiếm 27% tổng công suất lắp đặt của toàn hệ thống và sản lượng điện năng lượng tái tạo đạt 31,508 tỷ kWh, chiếm 12,3% tổng sản lượng điện sản xuất toàn hệ thống.

Các nhà phân tích cho rằng, thành công phát triển năng lượng Việt Nam có sự đóng góp hiệu quả của Nhóm Đối tác Năng lượng Việt Nam, được thể hiện qua hơn 40 khuyến nghị chính sách đề xuất. Thông qua cơ chế đối thoại cấp cao trong khuôn khổ VEPG, quan hệ hợp tác giữa Chính phủ Việt Nam và các Đối tác phát triển đã ngày càng được cải thiện, có ý nghĩa quan trọng đối với sự phát triển kinh tế-xã hội của Việt Nam.

Nghiên cứu cơ chế hợp tác đa phương của VEPG, các nhà phân tích đã nhấn mạnh vai trò quan trọng để thực hiện các mục tiêu quốc gia về năng lượng. Hội nghị Cấp cao lần này đã tổng kết những thành tựu và đóng góp tích cực của VEPG trong hơn 4 năm hoạt động nhằm thúc đẩy sự phát triển của ngành năng lượng Việt Nam.

Từ những nội dung tổng kết, VEPG đã tái cơ cấu các nhóm công tác kỹ thuật, xác định những chủ đề trọng tâm phù hợp với nhu cầu cấp thiết của quốc gia cũng như tận dụng các nguồn lực hỗ trợ từ trong và ngoài nước. Cùng với các bộ, ban, ngành và đối tác trong và ngoài nước, VEPG còn hỗ trợ Chính phủ xây dựng những biện pháp giảm phát thải khí nhà kính để đạt mức phát thải ròng bằng 0 vào năm 2050, Từ thông điệp đưa ra, cơ chế hợp tác đa phương của VEPG giữg vai trò quan trọng để thực hiện các mục tiêu quốc gia trong lĩnh vực năng lượng.

Hội nghị Cấp cao lần này tổng kết thành công và những đóng góp tích cực của VEPG trong những năm hoạt động với vai trò là diễn đàn đối thoại chính sách cấp cao kết nối Chính phủ với các đối tác phát triển nhằm thúc đẩy sự phát triển của ngành năng lượng Việt Nam. Hội nghị cũng đã chỉ ra "Cùng với các bộ, ban, ngành và các đối tác, VEPG đã góp phần hỗ trợ Chính phủ xây dựng các biện pháp giảm phát thải khí nhà kính mạnh mẽ để đạt mức phát thải ròng bằng 0 vào năm 2050,

Với thông điệp đưa ra "Cùng nhau, chuyển dịch năng lượng bền vững”, Hội nghị đồng thời công bố 5 nhóm công tác kỹ thuật mới bao gồm: Quy hoạch chiến lược ngành điện; Năng lượng tái tạo; Tích hợp lưới điện và Hạ tầng lưới điện; Hiệu quả năng lượng và Thị trường năng lượng. nhóm Đối tác Năng lượng Việt Nam đã khẳng định rõ mục tiêu tiếp tục đảm bảo sự hợp tác chặt chẽ, hỗ trợ hiệu quả và góp phần định hình quá trình chuyển dịch năng lượng quốc gia,

Một số khuyến nghị cần cân nhắc, xem xét.

Trong những thập niên qua, ngành năng lượng luôn đóng vai trò là động lực cơ bản cho sự phát triển kinh tế bao trùm. Để trở thành nền kinh tế có thu nhập cao trong bối cảnh phục hồi xanh sau đại dịch, năng lượng là ngành quan trọng trong hành trình vượt qua khó khăn cho các giai đoạn tiếp theo.

Việt Nam là quốc gia có nhiều tiềm năng và cơ hội để phát triển năng lượng xanh, sạch, Cùng với thuận lợi về điều kiện tự nhiên thời gian qua chủ động định hướng dài hạn của Chính phủ.trong tái cấu trúc ngành đã được sự chỉ đạo quyết liệt cùng với đẩy mạnh cơ cấu lại và nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước, Chính phủ đã từng bước hình thành thị trường điện cạnh tranh theo lộ trình phê duyệt đồng thời với đẩy mạnh thực hiện Chương trình quốc gia sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả. Tuy nhiên, bên cạnh những yếu tố thuận lợi, Việt Nam còn phải thực hiện nhiều giải pháp để vượt qua khó khăn, thách thức; đảm bảo an ninh năng lượng trong điều kiện giảm thiểu tác động môi trường và sức ép lên hạ tầng cơ sở: những giải pháp tiến hành đòi hỏi vốn đầu tư lớn trong bối cảnh nợ công tăng cao và cổ phần hóa chưa thuận lợi. Trước yêu cầu CNH và HĐH đất nước, nhu cầu năng lượng không ngừng gia tăng ở mức 2 con số, chiến lược dài hạn, phù hợp với điều kiện thực tế có vai trò then chốt trong định hướng phát triển năng lượng Việt Nam, Quy hoạch tổng thể phát triển năng lượng quốc gia với các đề án mang tính nền tảng, tạo tiền đề thúc đẩy phát triển ngành trong thời gian tới cần hướng tới chuyển dịch năng lượng bền vững, Thực tế này đòi hỏi ngành phải đẩy mạnh quan hệ hợp tác quốc tế và kêu gọi sự tham gia mạnh mẽ của các tổ chức phát triển quốc tế, sự đóng góp tích cực từ khu vực ngoài nhà nước, các doanh nghiệp tư nhân, tổ chức phi chính phủ và các cơ quan nghiên cứu,

Thực trạng đất nước đòi hỏi phải mở mang nhanh ngành năng lượng để phục vụ cho nhu cầu phát triển. Theo đó, công suất toàn hệ thống điện cần tăng gấp đôi trong vòng 10 năm tới. Bên cạnh đó, cũng cần quản lý tốt hơn tác động của BĐKH bằng cách cắt giảm đáng kể lượng phát thải carbon hiện chiếm tới 2/3 tổng lượng phát thải cả nước,

Để hiện thực hóa những mục tiêu này, cần huy động đủ nguồn tài chính cho quá trình chuyển đổi năng lượng đảm bảo nguyên tắc công bằng và khả năng chi trả; đồng thời phải tiếp tục đẩy mạnh cải cách. Tại COP26, Chính phủ Việt Nam đã đưa ra mục tiêu giảm phát thải ròng bằng 0 vào năm 2050 và dừng sản xuất nhiệt điện than trong giai đoạn 2030-2040. Những cam kết của Thủ tướng trong Hội nghị Thượng đỉnh toàn cầu đã đặt ra mục tiêu rõ ràng cho ngành năng lượng. Việc xây dựng và triển khai lộ trình khả thi để hiện thực hóa những mục tiêu này cần được ưu tiên ở vị trí hàng đầu. Thông qua thu hút đầu tư, tạo việc làm và nâng cao khả năng cạnh tranh của nền kinh tế, ngành năng lượng nước ta có nhiều lợi thế để đi đầu trong việc thực hiện các mục tiêu tăng trưởng xanh của đất nước. Từ góc nhìn nghiên cứu, dướu đây là một số vấn đề nêu ra để cùng trao đôi.

Trước hết, các chính sách và quy hoạch ngành, nhất là Quy hoạch điện VIII, cần coi quá trình chuyển đổi năng lượng sạch là một mục tiêu cốt lõi. Điều này đồng nghĩa với việc lựa chọn cơ cấu năng lượng thích hợp, tập trung vào việc loại bỏ dần nhiệt điện than, Đồng thời với quản lý tác động của quá trình chuyển đổi đối với người dân và doanh nghiệp cần được xem xét  với vai trò thích hợp của các nguồn nhiên liệu chuyển đổi khác nhau.

Những rào cản trong khai thác năng lượng tái tạo cũng cần được xem xét để loại bỏ. Thực tiễn phát triển vượt trội của điện mặt trời và điện gió thời gian qua cho thấy. vai trò quan trọng của biểu giá FIT ưu đãi, nhưng cơ chế này cũng tạo ra những thách thức liên quan đến tình trạng phát triển tràn lan, dẫn đến việc phải cắt giảm công suất phát diện và bất ổn định đối với hệ thống chuyển tải. Đã đến lúc cần đẩy nhanh tiến độ thiết kế và triển khai cơ chế đấu thầu cạnh tranh. Cơ chế đấu giá được tổ chức đồng bộ có thể là giải pháp để thúc đẩy ngành phát triển, nhất là đối với điện gió ngoài khơi, một nguồn năng lượng sạch có tiềm năng mang lại lợi ích lớn,

Nhằm bắt kịp tốc độ phát triển của các công nghệ năng lượng sạch, cần khẩn trương mở rộng và hiện đại hóa mạng lưới điện. Theo đó, ngoài đảm bảo công suất phát diện, cần tập trung nâng cao khả năng và tính linh hoạt của mạng lưới chuyển tải điện với các hệ thống pin và giải pháp lưu trữ năng lượng. Bên cạnh đó, việc hạn chế tình trạng quá tải, nghẽn lưới cũng là một cơ hội để tăng cường tự động hóa và số hóa toàn ngành.

Các biện pháp thúc đẩy sử dụng năng lượng hiệu quả và điều tiết nhu cầu từ phía người tiêu dùng sẽ giúp mang lại thành công. Theo nhiều quan sát, những can thiệp không chỉ làm giảm nhu cầu mở rộng nguồn cung mà còn mang lại hiệu quả cao về chi phí. Tăng cường sử dụng những nguồn năng lượng tái tạo có công suất nhỏ và phát điện phân tán có thể đóng vai trò bổ trợ tích cực cho hệ thống phát điện tập trung.

Trong thực tiễn, Việt Nam đang cần một phương pháp tiếp cận hệ thống để huy động lượng lớn tài chính cần thiết cho quá trình chuyển đổi năng lượng, Theo ước tính của Ngân hàng Thế giới, nguồn vốn này vào khoảng 14 tỷ USD mỗi năm. Đổi mới kịp thời môi trường đầu tư phù hợp với từng lĩnh vực sẽ là cơ hội thu hút đầu tư của khu vực tư nhân, Qua đó, có thể đáp ứng được những khoản đầu tư cần thiết. Từ đây, Chính phủ cũng cần xem xét để nghiên cứu,và ban hành quy định tạo điều kiện cho tài chính công, bao gồm cả phân bổ nguồn vốn ODA và các quỹ khí hậu cho ngành điện hướng vào tạo hiệu ứng hỗ trợ và thúc đẩy khu vực tư nhân trong phát triển lưới điện hoặc các dự án PPP trong lĩnh vực này.

Thay cho lời kết

Chuyển đổi năng lượng sạch đòi hỏi phương pháp tiếp cận toàn diện cho cả nền kinh tế chứ không chỉ là những giải pháp đơn lẻ. Các lĩnh vực ưu tiên đã được các nhóm công tác kỹ thuật của VEPG đề cập trong nhiều khuyến nghị trước đây. Điều quan trọng ngày nay là biến những khuyến nghị này thành các hành động chính sách và thực thi hiệu quả.

Những chuyển đổi của ngành năng lượng sạch có thể trở thành động lực mạnh mẽ để hiện thực hóa các mục tiêu phát triển cũng như tham vọng về khí hậu của Việt Nam... Hy vọng những nội dung đề được đề cập trong bài viết sẽ được các nhà quản lý và hoạch định chính sách năng lượng nước nhà quan tâm xem xét./.