“Một lời xin nhớ nhắc ai
Hội làng mồng tám tháng hai thì về”
Câu ca ấy nhắc nhớ những người con làng So (Quốc Oai - Hà Nội) dù đi đâu cũng hướng về quê hương, nơi có hội làng vào ngày mồng tám tháng hai hàng năm. Làng So xưa thuộc Trang Sơn Lộ, Phủ Quốc Oai, một vùng đất Xứ Đoài văn hiến nổi hương danh với những di tích lịch sử văn hoá lâu đời.
Thờ nhân vật lịch sử có công với nước
Nhân dân làng So xưa kia và ngày nay thờ các vị thành hoàng làng trong ngồi đình So cổ kính linh thiêng để tri ân công đức của các bậc tiền nhân với dân với nước và cầu mong các thần phù hộ cho dân làng bình an, mưa thuận gió hòa, mùa màng tươi tốt. Đình làng So một năm có 3 lễ lớn, lễ hội từ mùng 8 tháng 2 âm lịch, lễ khao quân mùng 10 tháng 7 âm lịch, lễ Thánh hóa mùng 10 tháng 12 âm lịch.
Hội mùa xuân, là lễ hội mừng ngày Thánh sinh diễn ra trong 3 ngày từ mùng 8 tháng 2 đến mùng 10 tháng 2 âm lịch hàng năm. Ngày này dân làng tổ chức rước bài vị từ Miếu Ông và Miếu Bà, là song thân của các Thánh về đình để chung hưởng sự thành kính của dân làng. Theo ghi chép trong sách cổ thì hội diễn ra trong 3 ngày với các hoạt động rước kiệu, tế lễ, diễn xướng dân gian trong không gian đình làng.
Cũng giống như bao ngôi đình làng Việt khác, đình làng So không chỉ đơn thuần là nơi thờ cúng linh thiêng của cộng đồng, là không gian sinh hoạt văn hóa, tín ngưỡng, mà còn là “chứng nhân” của lịch sử, cùng trải qua biết bao thăng trầm, biến cố của thời gian. Trong đời sống văn hoá của người dân nơi đây, đình làng đóng vai trò thiết yếu không chỉ không chỉ với yếu tố cộng đồng làng, cư dân sinh hoạt văn hóa, đình làng còn là một thành phần mang tính độc lập, là nơi lưu giữ các giá trị văn hóa truyền thống, nơi các hoạt động văn hóa cộng đồng được tổ chức và cũng là nơi tạo nguồn cảm hứng cho người dân sáng tạo nên các giá trị văn hóa làng. Ở đó, không những có giá trị về mặt kiến trúc, điêu khắc dân gian thuần Việt, đình làng còn là kho tàng về di sản văn hoá Việt như diễn xướng, lễ hội, huyền thoại, thần tích, truyền thuyết về các vị thành hoàng làng.
Theo ngọc phả Đình làng So và các nguồn sử liệu chép rằng, vào mùa xuân năm Canh Dần (930), có ông Cao Hiển và bà Lã Thị Ả ở hương Vạn Kỳ, huyện Gia Định, phủ Thuận An, đạo Kinh Bắc nhà vốn rất nghèo, làm nghề đánh cá trên sông. Hai ông bà rất thích làm việc thiện, một việc thiện dù nhỏ cũng làm. Một hôm hai ông bà chài lưới trên sông Như Nguyệt, kéo được 15 dật vàng. Từ đấy hai ông bà làm ăn cứ khấm khá mãi lên nên cuộc sống rất khá giả. Hiềm nỗi hai ông bà đã ngoài 50 tuổi mà vẫn chưa có con trai. Ông vẫn thường nói: Tiền rừng gạo bể mà không có con thì sống không được vui và bàn với bà đi tìm nơi cầu tự. Hai ông bà nghe nói ở đền Hữu Linh, làng So, trang Sơn Lộ là nơi linh ứng cầu gì được nấy, bèn cùng nhau sắm sửa lễ vật đến đó cầu tự. Sớm hôm sau ông bà làm lễ tạ rồi xuống thuyền cùng với hai người vạn chài xuôi dòng sông Đáy. Thuyền đang đi, trời bỗng nhiên tối sầm lại như đêm và một trận gió lớn ập đến. Lúc này thuyền chở ông bà đến địa phận trang Sơn Lộ, hai người ngẩng đầu nhìn lên trời thấy có đám mây vàng hướng vào bà mà hạ xuống. Lã thị hoảng sợ, nằm miên man. Sau đó bà có mang. Tháng 2 năm Quý Tỵ (933), bà sinh được 3 người con trai. Ba chàng trai khoẻ mạnh khỏe lớn khôn rồi theo Đinh Bộ Lĩnh đi dẹp loạn 12 sứ quân.
Chỉ trong vài năm, ba ông cùng Đinh Bộ Lĩnh lần lượt đánh thắng, bình định được 11 sứ quân. Tuy nhiên khi đối mặt với sứ quân hùng mạnh nhất do Đỗ Cảnh Thạc (Độc nhĩ vương) làm chỉ huy ở khu vực Thanh Oai, Quốc Oai, Thạch Thất, quân của Đinh Bộ Lĩnh chịu nhiều tổn thất. Bởi nơi đây không chỉ có thành cao hào sâu mà Độc Nhĩ Vương là người trí dũng mưu lược lại được lòng dân địa phương.
Để đánh bại được sứ quân của Đỗ Cảnh Thạc, Đinh Bộ Lĩnh phải bàn mưu tính kế để đánh. Hai bên giao tranh ác liệt trong hơn một năm (966 - 967). Chiến công lớn của 3 ba vị chủ soái họ Cao cùng nghĩa quân làng So là trận chiến với sứ quân Đỗ Cảnh Thạc vùng Đỗ Động. Khi vượt sông Thanh Quyết, các ông đánh thành Thường Vệ, vây thành Bảo Đà, đánh thành Quèn (xã Liêm Tuyết, Quốc Oai) rồi đóng đồn doanh ở Sơn Lộ Trang. Khi Đinh Bộ Lĩnh bị vây hãm ở Bối Khê, tình thế vô cùng nguy cấp, lập tức ba ông mang quân đi giải vây. Dân trang Sơn Lộ đã chọn ra 300 tráng đinh khỏe mạnh đi theo các ông làm thần tử. Trước ngày xung trận, dân làng mở tiệc khao quân bằng những đặc sản nổi tiếng của quê hương khi đó là bún gạo, chè kho…trong 3 ngày liền đúng dịp Tết Đoan Ngọ (đến nay, người dân làng So vẫn có câu “Mồng ba ăn bún, mồng bốn ăn chè, mồng năm giết sâu bọ”).
Vào trận, ba anh em họ Cao cùng nghĩa quân làng So tả xung hữu đột chém được chánh tướng Đỗ Thanh Long và hàng ngàn sĩ tốt, giải thoát cho Đinh Bộ Lĩnh. Năm 968, loạn 12 sứ quân được dẹp hoàn toàn, Đinh Bộ Lĩnh lên ngôi Hoàng Đế, hiệu là Đinh Tiên Hoàng đã sắc phong 3 anh em họ Cao là Tam vị Thông Hiện Nguyên soái Đại Vương.
Sau khi ba vị hóa về trời, nhân dân suy tôn là Tam Thánh Thành Hoàng làng So và thờ tự của các ngài là một ngôi miếu được xây dựng vào thời nhà Đinh (968 - 980). Đến năm 1673 thời Lê Trung Hưng (1533-1788), miếu được tu bổ cũng như mở rộng thành đình So hoàn thành vào năm 1674 có hướng chính điện nhìn ra sông Đáy và Hoàng Thành Thăng Long.
Danh lam đệ nhất đình Đoài
Đình làng So được biết đến là “danh lam đệ nhất Xứ Đoài”, một kiến trúc đình chùa tiêu biểu của đồng bằng Bắc Bộ. Ngôi đình được tọa lạc nhìn về hướng Đông nằm trên thế đất hình con Quy, phía trước có hồ nước bán nguyệt tạo yếu tố tụ phúc, tụ thủy, phía sau là đồi Vĩ Quy làm thế tựa, thế tỳ, phía Nam có đồi Phượng tạo thế tay vịn. Bên ngoài đê là cánh đồng bãi màu mỡ ven dòng sông Đáy linh thiêng. Quanh đình là vườn cây lưu niên tạo không gian xanh mát, tĩnh lặng cho ngôi đình. Về bố cục tổng thể đình So nằm trong sự chuyển tiếp từ ngôi đình có bố cục chữ Nhất sang kiểu chữ Đinh, chữ Công rồi sang kết cấu “nội công ngoại quốc”.
Đình bao gồm các hạng mục: Đại bái, Hậu cung, hai dãy Tả - Hữu vu, Nghi môn, hồ nước lớn hình bán nguyệt. Khu đình chính được đặt ở vị trí trung tâm. Đại bái gồm 7 gian 2 dĩ, chiều rộng 14m, chiều dài 34m; xung quanh là hệ thống cửa bức bàn, sàn gỗ chạy dọc hai bên. Sự hòa quyện giữa hai yếu tố di tích và không gian cảnh quan tạo nên nét riêng khác cho di tích đặc biệt này.
Đáng chú ý, mỹ thuật của đình So khá phong phú và đa dạng với những mảng chạm có giá trị mỹ thuật và mang tính kỹ thuật cao. Các mảng chạm khắc ở đình So tập trung chủ yếu ở Nghi môn, gian giữa tòa Đại đình và Ống muống. Đình so trải qua nhiều giai đoạn lịch sử và cũng có các đợt trùng tu nên các mảng trang trí trong đình cũng có những kỹ thuật thể hiện khác nhau nhưng chung lại vẫn tạo được sự tổng thể và thống nhất tạo nên một công trình bề thế về không gian và giá trị về thẩm mỹ của đình So nói riêng và cho các ngôi đình Việt Nam nói chung.
Cụ thể, ở Nghi môn của đình So với những bức chạm khắc các đề tài phong phú nhưng hình tượng rồng được làm đề tài chính xuyên suốt từ Nghi môn vào đến Đại đình. Với bức chạm bộ tứ linh thì trung tâm là hai con rồng lớn đang trong tư thế quay đầu vào nhau được thể hiện rất dữ tợn với hai mắt lồi về phía trước, trán u và mũi chạm vào nhau. Tạo hình rồng này đã xuất hiện tai thú và ngay phía sau tai là các bờm được cách điệu như các đao lửa xuôi về phía sau. Thân rồng uyển chuyển lẩn khuất trong những đám mây, thân vảy to và chân đang trong tư thế cuốn mây, đuôi xoắn ở hai góc phía trên. Phía sau đuôi rồng là hình ảnh hai con phượng đang tung cánh bay lên, phía dưới có 2 con lân và 2 con long mã đối xứng nhau. Hình ảnh long mã ở phía dưới mảng chạm cũng đang trong tư thế chạy và đầu hướng về phía lân như đang vui đùa. Cùng với long mã có xuất hiện rùa chở cuốn thư (Quy lạc thư) miệng phun nước tượng trưng cho khát vọng cầu mùa gắn liền với tư duy đặc trưng gắn với nền văn minh nông nghiệp lúa nước. Hình tượng cá chép cũng xuất hiện trong các mảng trang trí với đề tài long cuốn thủy.
Các mảng chạm khắc ở Nghi môn được kết hợp nhiều phong cách khác nhau tạo ra sự đa dạng trong trang trí từ chạm nổi hoa lá cách điệu (Tùng – Cúc – Trúc – Mai) đến chạm bong hình tượng rồng nghê tạo nên được những không gian đa chiều của kiến trúc.
Trước cửa đại đình ở hai bên tam cấp được trang trí bằng 2 con rồng đá dài 1,55m rộng 70cm độ dày thân là 32cm có chiều cao 92cm với thân ngắn, mập mạp trán thấp, nhỏ nhặt, mũi và miệng to đuôi xoắn phía sau với vảy cá chép điểm xuyến bằng các họa tiết mây lửa.
Vào trong Đại đình thì đề tài trang trí được thể hiện bao quát trong tòa Đại đình là hình ảnh “tứ linh” mà chủ yếu là hình tượng rồng được thể hiện tất cả trên các bức cốn, y môn, đầu dư, xà nách và các kẻ trong gian lòng thuyền được coi là trung tâm của Đại đình.
Theo “Sơn Tây tỉnh địa chí” của tác giả Phạm Xuân Độ có ghi: “Đình Sơn Lộ làm vào đời Hậu Lê, năm Dương Đức thứ III (1667), đình xây lối cổ, dài 90 thước, rộng 10 thước, theo hình chữ công, xung quanh có bao lan gỗ và sân lát gạch. Hậu cung có nghi môn che kín. Hai bên đình là hai nhà giải vũ. Đằng trước có chiếc cổng ba gian, làm theo lối tam quan các chùa và trông ra một hồ bán nguyệt, rộng ngót 7 mẫu, ở giữa nổi lên ba gò đất hình tròn. Lươn quanh mé hồ, là đường đê, đi xe hơi được”.
Đình So hiện lưu giữ được hệ thống tư liệu thành văn gồm: bia đá “Đại đình bi kí” có niên đại vào năm Dương Đức năm thứ 3 (1673), bia đá có niên đại vào năm Cảnh Hưng thứ 43 (1783), tảng đá kê chân cột hình hoa sen, rồng đá, nhang án gỗ chạm khắc khá tỉ mỉ mang phong cách nghệ thuật nửa đầu thế kỷ XVII. Hiện vật giấy gồm cuốn thần tích, hương ước và 42 Đạo sắc, sớm nhất có niên đại là năm Hoằng Định thứ 2 (1601) và muộn nhất là năm Khải Định thứ 9 (1924),…
Với những giá trị đặc biệt về nhân vật lịch sử, kiến trúc độc đáo, đình làng So được xếp hạng di tích Lịch sử – văn hóa ngày 10/7/1980 và được Thủ tướng Chính phủ xếp hạng là Di tích Quốc gia Đặc biệt tại Quyết định số 1820/QĐ-TTg ngày 24/12/2018.