Kỷ niệm 50 năm Giải phóng miền Nam (30/4/1975 - 30/4/2025): Phóng viên GP 10 góp phần làm rạng danh truyền thống vẻ vang của TTXVN: Về với "Mã Đà - Chiến khu D" (Bài 6)

Mã Đà cách không xa Sài Gòn (nay là thành phố Hồ Chí Minh) nhưng 50 năm về trước, nơi đây là “rừng thiêng nước độc” chỉ có đường mòn đi bộ, không có đường ô tô, đi lại rất khó khăn, thực dân Pháp  rồi  Mỹ - nguỵ có phương tiện chiến tranh hiện đại nhưng cũng rất khó đổ quân xuống đánh chiếm Mã Đà.

dsc00141-1745159292.jpg

Các cựu phóng viên chiến trường GP10 TTXVN thắp hương tại căn cứ Trung ương cục miền Nam - vùng “Mã Đà sơn cước”- là chiếc nôi của “Chiến khu Đ” nhân kỷ niệm 40 năm giải phóng miền nam, thống nhất đất nước.

Đất nước Việt Nam hình chữ S bên bờ Biển Đông trong lịch sử dựng nước và giữ nước luôn luôn phải chống chọi với thiên tai và giặc ngoại xâm, chỉ với diện tích gần 332.000 km2 nhưng hiện có tới hơn 3.000 nghĩa trang liệt sĩ nơi an nghỉ của hơn 1,2 triệu liệt sĩ hy sinh trong kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, bảo vệ biên giới Tây Nam, biên giới phía Bắc, chủ quyền lãnh hải mà đến nay vẫn còn hơn 200 nghìn liệt sĩ chưa tìm được hài cốt. Trong đó, nghĩa trang liệt sĩ Mã Đà (huyện Vĩnh Cửu - Đồng Nai) là chiếc nôi của “Chiến khu D” từng đi vào thi ca “Miền Đông gian lao mà anh dũng” để lại trong tôi những ký ức không bao giờ phai mờ.

Từ thành phố Hồ Chí Minh đến Mã Đà hơn 130 km về phía Bắc, trong đó có gần 20 km là đường cao tốc Long Thành - Dầu Dây. Mã Đà nay là một xã thuộc huyện Vĩnh Cửu, tỉnh Đồng Nai, là một trong những căn cứ cách mạng quan trọng bậc nhất của Miền Đông Nam Bộ trong kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ cứu nước.

dsc00148-1745159613.jpg

Cựu phóng viên chiến trường GP 10 Vũ Xuân Bân trở lại thăm Nghĩa trang liệt sĩ Mã Đà.

 

Như vậy, Mã Đà cách không xa Sài Gòn (nay là thành phố Hồ Chí Minh) nhưng 50 năm về trước, nơi đây là “rừng thiêng nước độc” chỉ có đường mòn đi bộ, không có đường ô tô, đi lại rất khó khăn, thực dân Pháp  rồi  Mỹ - nguỵ có phương tiện chiến tranh hiện đại nhưng cũng rất khó đổ quân xuống đánh chiếm Mã Đà.

Chính vì vậy,  sự tồn tại, Phát triển của lực lượng cách mạng từ Chiến khu D trở thành mối đe doạ cho sự tồn tại của quân Pháp ở Nam Bộ: "Chiến khu D còn, Sài Gòn mất". Trong 21 năm kháng chiến chống Mỹ - nguỵ, trong đó có 2 năm 1961-1962, Trung ương Cục Miền Nam đứng chân ở Chiến khu D, sau đó chuyển sang phía Bắc tỉnh Tây Ninh, giáp biên giới Campuchia, căn cứ kháng chiến này không ngừng được mở rộng nối thông hành lang chiến lược của cách mạng cả nước, từ Miền Bắc vào Miền Nam.

Địa bàn Chiến khu D không chỉ là chiến trường tiêu diệt quân địch trước những cuộc hành quân tìm diệt quy mô của kẻ thù mà còn là hậu phương vững chắc cho phong trào đấu tranh cách mạng. Đây cũng là nơi tập kết các nguồn lực của cách mạng, là trạm trung chuyển sức người, sức của từ Miền Bắc cho tiền tuyến lớn Miền Nam. Từ Chiến khu D, đoàn quân giải phóng phối hợp với các mặt trận khác thực hiện Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, giành thắng lợi cuối cùng để giải phóng Miền Nam, thống nhất đất nước vào Mùa Xuân 1975 lịch sử.

Từ thành phố Hồ Chí Minh trở về Mã Đà lần này không phải lội bộ như cách đây 50 năm, mà chúng tôi đi bằng ô tô du lịch chỉ mất gần 3 giờ là đến tận nơi. 

Thời tiết ở Mã Đà những năm trước đây vô cùng khắc nghiệt. Mùa khô, ban ngày nóng như đổ lửa nhưng đêm lạnh buốt thấu xương, sương mù giăng phủ khắp nơi, muỗi, vắt nhiều vô kể. Đặc biệt, mùa mưa thường kéo dài từ 5 đến 6 tháng, từ tháng 7 đến tháng 12, mưa dai dẳng suốt ngày đêm khiến sông suối trở nên hung dữ.

dsc00149-1745159862.jpg

Còn nhớ năm 1974, khi đó tôi mới 24 tuổi cùng một số phóng viên chiến trường GP10 - Thông tấn xã Giải phóng (nay là Thông tấn xã Việt Nam) đã có dịp hành quân qua vùng đất Mã Đà đi về Bà Rịa - Vũng Tàu. Cả lúc đi và lúc về đến Mã Đà đều bị sốt rét, mỗi lần phải nằm lại điều trị tại trạm giao liên hơn chục ngày. Thương chúng tôi bị sốt rét gầy yếu, da xanh như tàu lá, cán bộ trạm giao liên đã dùng thuốc nổ chất dẻo C4 bỏ vào vỏ lon sữa bò, cắm ngòi nổ ném xuống suối cá chết nổi vớt lên đem về nấu canh chua với ngọn non lá bứa bồi dưỡng chúng tôi sau khi cắt cơn sốt rét mau lại sức. Cũng may, tôi cùng một số đồng đội bị sốt rét sau vài đợt điều trị tiêm thuốc quinin  vào mông đều cắt cơn, coi như đã “nộp thuế rừng” vượt qua thử thách gian lao ở Mã Đà để hành quân tiếp về đơn vị công tác.

dsc00152-1745159968.jpg
Hai ảnh trên: Cựu phóng viên chiến trường GP 10 Vũ Xuân Bân thắp hương mộ liệt sĩ tại Nghĩa trang liệt sĩ Mã Đà.

Mã Đà được mệnh danh là “cái rốn” của sốt rét, từng cướp đi sinh mạng của nhiều cán bộ, chiến sĩ. Những chỉ dẫn của cán bộ giao liên cách nay 50 năm về nghĩa trang liệt sĩ Mã Đà vẫn còn in đậm trong ký ức của tôi và đồng đội. Vào những năm 1961 đến 1972, có  tiểu đoàn bộ đội chủ lực phiên chế đầy đủ quân số gần 400 chiến sĩ từ Miền Bắc vào, phải vừa hành quân vừa chiến đấu, đến Mã Đà bị sốt rét ác tính lại hy sinh tiếp, chỉ còn lại một đại đội hơn 100 người, có biệt danh là "Tiểu đoàn Lá Bép". Lá Bép là một loại lá cây rừng, hay còn gọi rau nhíp mọc nhiều ở bìa rừng, nơi ẩm thấp, nấu nhừ ăn ngọt như rau ngót. Có những lúc không có gạo, phải ăn lá bép trừ bữa. Cán bộ, chiến sĩ ta khi đó "đói cơm lạt muối", chết vì sốt rét ác tính ở trong rừng làm gì có hòm ván mà chỉ bó bằng võng, tăng (áo mưa) được trang bị cho từng cá nhân rồi an táng.

Trở về Mã Đà sau 50 năm giải phóng Miền Nam, thống nhất đất nước, chúng tôi được anh Trần Ngọc Tuấn, quê ở phường Bửu Long, thành phố Biên Hoà, tỉnh Đồng Nai, từng tốt nghiệp về văn hoá du lịch Đại học Đồng Nai, là Trạm phó Trạm Kiểm lâm Trung ương cục công tác tại trạm này đã hơn chục năm và anh Nguyễn Hoàng Nam, hướng dẫn viên Trạm kiểm lâm Trung ương cục đưa chúng tôi đến thắp hương khu Nghĩa trang liệt sĩ Mã Đà. Khu nghĩa trang này rộng khoảng 2,5 héc-ta. Trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước, tại Mã Đà này có Bệnh xá K72. Thương bệnh binh ở khu vực Chiến khu D đều đưa về đây điều trị. Những thương bệnh binh, trong đó nhiều người bị sốt rét ác tính không qua khỏi đều an táng tại Nghĩa trang liệt sĩ Mã Đà.

dsc00154-1745160156.jpg

Cựu phóng viên chiến trường GP10 Đoàn Việt ( bên trái-áo trắng) và Vũ Xuân Bân (bên phải) xúc động bên Bia kỷ niệm Đài phát thanh Giải Phóng và Thông tấn xã Giải Phóng (thời kỳ 1961-1962) tại căn cứ Trung ương cục miền Nam ở Mã Đà.

Cho đến bây giờ, chúng ta cũng chưa thể biết được thống kê chính xác có bao nhiêu chiến sĩ đã nằm xuống tại vùng đất thiêng Mã Đà. Bởi có nhiều chiến sĩ hy sinh trên khắp các mặt trận Miền Đông Nam Bộ được đồng đội đưa về đây chôn cất, hẹn một ngày khi đất nước toàn thắng sẽ quay lại quy tập vào nghĩa trang liệt sĩ tập trung hoặc đưa các anh về với quê hương bản quán. Thế nhưng, hết trận đánh này đến trận đánh khác, hết người này hy sinh đến người kia ngã xuống. Chiến trường ác liệt, hầu hết không có bia mộ ghi họ tên, địa chỉ liệt sĩ, có chăng chỉ khắc tên, địa chỉ vào khúc gỗ cắm xuống nhưng bom đạn cày đi xới lại, rồi mối xông, cháy rừng vào mùa khô thường xuyên xảy ra xoá hết những dấu tích. Đến khi giải phóng Miền Nam, thống nhất đất nước rất khó nhận dạng chính danh từng phần mộ liệt sĩ chôn cất ở đây. Khi chúng tôi trở lại nơi đây có biển đề “Nghĩa trang liệt sĩ Mã Đà” nhưng chỉ còn lại những ụ đất nhấp nhô, hầu hết chưa có tấm bia, phần mộ ghi danh các liệt sĩ. Là người đã “nếm mật nằm gai” nơi đây, thắp ném hương tri ân, tưởng nhớ các liệt sĩ, chúng tôi xúc động rơi lệ và mong muốn tỉnh Đồng Nai và Ngành Thương binh xã hội quan tâm đầu tư xây dựng nghĩa trang liệt sĩ Mã Đà xứng với tầm vóc “cái nôi” cách mạng của “Miền Đông gian lao mà anh dũng” trở thành điểm đến du lịch tâm linh, sinh thái, “trở về nguồn” tưởng nhớ các anh hùng liệt sĩ hy sinh trong hai cuộc kháng chiến cứu nước.

dsc00131-1745160317.jpg

Đoàn cựu phóng viên GP10 chụp ảnh tại Đài kỷ niệm căn cứ trung ương cục miền Nam tại Mã Đà- Chiến khu Đ.

Chỉ vào một phần mộ duy nhất có họ tên là liệt sĩ Nguyễn Sĩ Việt (1950 -1969), quê ở Đô Lương, tỉnh  Nghệ An, Trạm phó Trạm Kiểm lâm Trung ương cục Trần Ngọc Tuấn xúc động cho biết: Gia đình liệt sĩ Nguyễn Sĩ Việt sau nhiều lần đi tìm kiếm, được nhà ngoại cảm Năm Nghĩa ở thành phố Vũng Tàu mách rằng, hiện liệt sĩ Việt đang nằm ở Nghĩa trang Mã Đà, nếu gia đình không đến sớm thì chỉ qua một đợt mưa nữa, xương cốt sẽ bị trôi hết, không còn gì. Năm 2013, khi gia đình tìm đến, xác định một phần đất nằm ven bên suối chỉ còn mấy đốt ngón xương tay cùng mấy chiếc răng, còn xương phần đầu nằm dưới lòng suối, xương chân và tay lại nằm ở triền suối. Sau khi giám định ADN, hài cốt liệt sĩ Nguyễn Sĩ Việt được gia đình đưa về quê hương an táng. Gia đình liệt sĩ Việt có gửi lại một bức hình để bộ phận trông nom Nghĩa trang Mã Đà tiện thắp nhang.

Sau khi thắp hương tưởng nhớ các liệt sĩ chưa xác định được danh tính tại Nghĩa trang Mã Đà, chúng tôi tới thăm tượng đài, nơi không chỉ ghi lại danh sách mà còn đúc tượng đồng các đồng chí lãnh đạo Trung ương cục Miền Nam từng gắn bó với “Mật khu Mã Đà” gồm Nguyễn Văn Linh (Mười Cúc), Võ Toàn (Võ Chí Công, Năm Công), Phan Văn Đáng (Hai Văn), Trần Lương (Trần Nam Trung, Hai Hậu), Phạm Văn Xô (Hai Xô), Phạm Thái Bường (Ba Bường), Võ Văn Kiệt (Sáu Dân), Nguyễn Đôn, Trần Văn Quang (Bảy Tiến), Trương Chí Cương (Tư Thuận), Lê Quang Thành (Tư Thành). Các vị tiền bối cách mạng này đều đã về với tiên tổ..

Từ lâu, Mã Đà đã trở thành “địa chỉ đỏ” để giáo dục truyền thống yêu nước, ý chí cách mạng kiên cường của các anh hùng liệt sĩ và các bậc lãnh đạo tiền bối. Những năm gần đây, Mã Đà  ngày càng thu hút khách du lịch đến tham quan, chiêm bái, tri ân các anh hùng, liệt sĩ an nghỉ tại nơi đây.Buổi trưa hôm về thăm Mã Đà, chúng tôi bắt gặp một khách du lịch Tây thuê xe máy tự đi phượt từ thành phố Hồ Chí Minh về đây. Chúng tôi hỏi bằng tiếng Anh thì du khách này cho biết đến từ Thuỵ Sĩ, tên là Sát - xạt (ảnh dưới), bày tỏ thích thú khi được đến địa chỉ du lịch sinh thái này với rừng nguyên sinh hấp dẫn.

dt1a2015-1745160813.png

Sau 50 năm giải phóng, rừng Chiến khu D đã khép tán, chúng tôi cảm nhận được sức sống mãnh liệt của những loài cây bằng lăng, săng lẻ... đã tồn tại hàng trăm năm cao vút, tán lá phủ xanh kín Mã Đà, ẩn chứa biết bao sự sống diệu kỳ của thiên nhiên. Nhiều loại cây dược liệu quý mà chỉ có Chiến khu D mới có như cây Lành ngạnh, cây Mật nhân (Bá bệnh)… Chiến tranh đã lùi xa, thế hệ sau nếu không được giáo dục, chỉ dẫn thì có biết được rằng rừng nơi đây trong những năm kháng chiến chống Mỹ cứu nước đã bị rải chất độc da cam/điôxin cùng bom đạn tàn phá, huỷ diệt?

Chị Trần Thị Kim Dung, quê xã Thanh Ngọc, huyện Thanh Chương, Nghệ An được Khu Bảo tồn Thiên nhiên Văn hoá Đồng Nai phân công hướng dẫn chúng tôi đi thăm “Mã Đà sơn cước” cho biết, ở khu rừng này gặp khỉ, voọc và các loài rắn độc là chuyện thường xuyên. Rừng Chiến khu D còn có voi, bò tót quý hiếm có tên trong sách đỏ của Việt Nam.

Sở dĩ còn nhiều loài động vật hoang dã quý hiếm ấy là do anh em trong Khu Bảo tồn Thiên nhiên - Văn hoá Đồng Nai cùng đồng bào dân tộc Chơ - ro có ý thức bảo tồn các loài động vật này. Người Chơ - ro bản địa xưa kia cùng bộ đội Cụ Hồ đã từng lập nên những chiến công hào hùng, bất khuất, hết kháng Pháp lại đánh đuổi Mỹ - nguỵ cho đến ngày toàn thắng. Nay họ sống tập trung tại ấp Lý Lịch, xã Phú Lý, địa phận giáp ranh xã Mã Đà ven những con sông, suối. Nếp sống mới đã hiện hữu với nhiều công trình đồ sộ đang thi công và hứa hẹn sẽ mang lại nhiều lợi ích kinh tế như: Trung tâm Du lịch sinh thái huyện Vĩnh Cửu, Dự án mở rộng nâng cấp Khu Bảo tồn Thiên nhiên Di tích Chiến khu D, Nghĩa trang liệt sĩ Mã Đà đang hoàn chỉnh quy hoạch sẽ được đầu tư thành công viên nghĩa trang... là "địa chỉ đỏ" hấp dẫn khách đi tour du lịch tâm linh, sinh thái.

Chia tay chúng tôi, hướng dẫn viên Khu Bảo tồn Thiên nhiên - văn hóa Đồng Nai Trần Thị Kim Dung đọc mấy câu thơ tiễn biệt làm chúng tôi xao xuyến bịn rịn:

Rồng chầu ngoài Huế

Ngựa tễ Đồng Nai

Nước sông trong chảy lộn sông ngoài

Thương người quân tử lạc loài tới đây

Tới đây thì ở lại đây

Bao giờ bén rễ xanh cây mới về.

(Còn nữa)
Đón đọc Bài 7: Thăm Dinh Độc Lập (Thống nhất)


V.X.B