Kỳ 46.
XIV. TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
1. Khái niệm tư tưởng và tư tưởng Hồ Chí minh.
Khái niệm tư tưởng: Tư tưởng là sự phản ánh hiện thực trong ý thức, là biểu hiện quan hệ giữa con người với thế giới bên ngoài.
Tư tưởng là một hệ thống những quan điểm được xây dựng trên nền tảng một triết học nhất định, đại diện cho ý chí nguyện vọng một giai cấp, một dân tộc được hình thành trên cơ sở thực tiễn nhất định và những quan điểm đó quay trở lại chỉ đạo hoạt động thực tiễn, cải tạo hiện thực xã hội.
Nhà tư tưởng là người biết giải quyết trước những người khác tất cả những vấn đề chính trị, sách lược, các vấn đề tổ chức, về những yếu tố vật chất của phong trào.
Khái niệm tư tưởng Hồ Chí Minh: Khái niệm do Đại hội Đảng lần thứ IX đưa ra: “Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, là kết quả của sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta, kế thừa và phát triển các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân loại. Đó là tư tưởng về giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người, về độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, về sức mạnh của nhân dân, của khối đại đoàn kết dân tộc, về quyền làm chủ của nhân dân, xây dựng nhà nước thực sự của dân, do dân, vì dân, về quốc phòng toàn dân, xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân; về phát triển kinh tế và văn hoá, không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, về đạo đức cách mạng, cần kiệm liêm chính, chí công vô tư; về chăm lo bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau; về xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, cán bộ, đảng viên vừa là người lãnh đạo, vừa là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân. Tư tưởng Hồ Chí Minh soi đường cho cuộc đấu tranh của nhân dân ta giành thắng lợi, là tài sản tinh thần to lớn của Đảng và dân tộc ta” [1] Định nghĩa trên đã làm rõ được bản chất cách mạng khoa học, nguồn gốc tư tưởng lý luận, những nội dung cơ bản và ý nghĩa giá trị của tư tưởng Hồ Chí Minh.
Định nghĩa của các nhà khoa học: “Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, từ cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân đến cách mạng xã hội chủ nghĩa; là kết quả của sự vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác-Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta, đồng thời là sự kết tinh tinh hoa dân tộc và trí tuệ thời đại nhằm giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp và giải phóng con người”[2].
2. Hoàn cảnh lịch sử trong nước và thế giới.
Hoàn cảnh trong nước: Năm 1858 thực dân Pháp nổ súng xâm lược Việt Nam. Do sự hèn nhát đầu hàng của Vương Triều Nguyễn, nước ta mất và trở thành thuộc địa của đế quốc Pháp.
Hết lớp này đến lớp khác, hết thế hệ này đến thế hệ khác, nhân dân ta đã anh dũng đứng dậy đấu tranh chống Pháp. Phong trào chống Pháp của nhân dân miền Nam, phong trào Cần Vương ở miền Trung và miền Bắc, phong trào khởi nghĩa của nông dân Yên Thế (Bắc Giang), phong trào Đông Du của cụ Phan Bội Châu, phong trào cải cách ôn hoà của cụ Phan Châu Trinh. Tất cả các cuộc đấu tranh đều bị đàn áp tắm trong máu và thất bại. Thất bại của các phong trào đó nói lên ngọn cờ của giai cấp phong kiến, của giai cấp nông dân, của xu hướng tư sản đều không hoàn thành được nhiệm vụ lịch sử là giải phóng dân tộc. Điều đó buộc các thế hệ sau hai cụ Phan như Nguyễn Tất Thành (Nguyễn Ái Quốc) phải đi tìm con đường cứu nước mới.
Thực dân Pháp biến nước ta thành thuộc địa nhưng vẫn duy trì chế độ phong kiến trên tất cả các lĩnh vực chính trị, kinh tế, xã hội, luật pháp. Tính chất xã hội Việt Nam là thuộc địa nửa phong kiến, tồn tại hai mâu thuẫn cơ bản: Mâu thuẫn giữa dân tộc Việt Nam với đế quốc Pháp xâm lược, mâu thuẫn giữa nhân dân Việt Nam, chủ yếu là nông dân với địa chủ phong kiến. Chống đế quốc và chống phong kiến là hai nhiệm vụ khăng khít, là quy luật của cách mạng Viêt Nam, trong đó chống đế quốc, giải phóng dân tộc là nhiệm vụ chủ yếu. Từ cuộc kháng chiến của nhân dân miền Nam cuối thế kỷ XIX cho đến hai cụ Phan đầu thế kỷ XX sở dĩ thất bại vì không hiểu rõ hoàn cảnh phát sinh quy luật trên của cách mạng Việt Nam. Ngọn cờ tư tưởng Hồ Chí Minh thành công trong việc giải phóng dân tộc vì Hồ Chí Minh nắm chắc hoàn cảnh cụ thể, hành động đúng quy luật khách quan của cách mạng Việt Nam.
Cũng cần phải tính tới các yếu tố nội tại của Việt Nam do cuộc khai thác bóc lột lần 1 (cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX) và lần 2 (từ 1919 về sau) của thực dân Pháp. Do khai thác mà Pháp du nhập quan hệ tư bản chủ nghĩa vào Việt Nam. Sự chuyển biến kinh tế kéo theo sự chuyển biến về xã hội, những giai cấp, tầng lớp mới ra đời như giai cấp vô sản, giai cấp tư sản, tầng lớp tiểu tư sản, trí thức, thị dân. Đặc biệt giai cấp công nhân Việt Nam sẽ là cơ sở xã hội để tiếp thu chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quyết định xu hướng cách mạng dân tộc dân chủ kiểu mới đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
Hoàn cảnh quốc tế: Cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, chủ nghĩa tư bản từ chủ nghĩa tư bản tự do cạnh tranh bước sang giai đoạn chủ nghĩa tư bản độc quyền, sang giai đoạn đế quốc chủ nghĩa. Chủ nghĩa đế quốc đẩy mạnh xâm lược các nước Á-Phi để thành lập hệ thống thuộc địa. Thế giới xuất hiện thêm một mâu thuẫn mới và một phong trào đấu tranh mới, mâu thuẫn giữa các nước thuộc địa Á-Phi với chủ nghĩa đế quốc và cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc để giải phóng dân tộc của các dân tộc thuộc địa.
Cũng trong thời đại đế quốc chủ nghĩa này, mâu thuẫn giữa các cường quốc đế quốc ngày càng gay gắt vì vấn đề thuộc địa. Đế quốc Đức cường quốc số 2 (sau Mỹ) về kinh tế lại rất ít thuộc địa, trong khi đó Anh và Pháp là những cường quốc số 1 và số 2 về thuộc địa nhưng địa vị kinh tế đã giảm xuống hàng số 3 và 4. Khối đế quốc Đức-Áo-Hung kiên quyết dùng vũ lực để phân chia lại bản đồ thuộc địa. Mâu thuẫn giữa hai khối trong phe đế quốc: Đức-Áo-Hung với bên kia là Anh, Nga, Pháp đã dẫn tới Đại chiến thế giới thứ nhất (1914-1918).
Chiến tranh đế quốc mang lại đói khổ, chết chóc cho không chỉ nhân dân thuộc địa mà cho cả nhân dân chính quốc. Mâu thuẫn giữa vô sản và nhân dân lao động với đế quốc ngày càng gay gắt dẫn tới một phong trào cách mạng rộng lớn ở các nước tham chiến. Cách mạng xã hội chủ nghĩa Tháng Mười Nga năm 1917 là kết quả của biến chiến tranh đế quốc thành nội chiến cách mạng. Cách mạng Tháng Mười Nga đã mở ra một thời đại mới trong lịch sử nhân loại, mở ra con đường giải phóng cho các dân tộc thuộc địa.
Những yếu tố mà Lênin gọi là thời đại trong nước và quốc tế đó đã và đang tồn tại, đang diễn ra lúc mà Nguyễn Ái Quốc đang trên đường tìm đường cứu nước đã ảnh hưởng to lớn sâu sắc đến việc hình thành tư tưởng của Người.
3. Nguồn gốc tư tưởng Hồ Chí Minh.
Tinh hoa văn hoá dân tộc: Truyền thống yêu nước và chủ nghĩa yêu nước. Quá trình lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam đã hình thành và phát triển truyền thống yêu nước và chủ nghĩa yêu nước. Đó là những giá trị thiêng liêng quý giá nhất trong hành trang hành trình lịch sử của dân tộc.
Chủ nghĩa yêu nước có trong mỗi con người Việt Nam, trở thành đạo đức, tính cách, bản chất của mỗi con người và của cả cộng đồng dân tộc. Hồ Chí Minh viết “Dân ta có lòng nồng nàn yêu nước. Đó là một truyền thống quý báu của ta. Từ xưa đến nay mỗi khi Tổ quốc bị xâm lăng thì tinh thần ấy lại sôi nổi, nó kết thành một làn sóng vô cùng mạnh mẽ, to lớn, nó lướt qua mọi sự nguy hiểm, khó khăn, nó nhấn chìm tất cả lũ bán nước và cướp nước” [3]. Chủ nghĩa yêu nước là một trong những nguồn gốc hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh. Hồ Chí Minh là một trong những người yêu nước nhất trong số những người Việt Nam yêu nước. Từ yêu nước, Hồ Chí Minh quyết tâm đi tìm con đường giải phóng dân tộc và từ chủ nghĩa yêu nước Người đến với chủ nghĩa cộng sản, chủ nghĩa Quốc tế.
Tư tưởng Hồ Chí Minh còn là sự đúc kết tinh hoa văn hoá Việt Nam, đó là những tư tưởng triết học, chính trị, quân sự, dân chủ, văn học…của các nhà tư tưởng, chính trị, quân sự, văn hoá kiệt xuất Việt Nam như Lý Thường Kiệt, Trần Thái Tông, Trần Hưng Đạo, Nguyễn Trãi, Quang Trung…
Tinh hoa văn hóa nhân loại: Văn hoá Phương Đông. Hồ chí Minh đã tiếp thu tinh hoa tiến bộ nhất trong các học thuyết như triết học duy vật cổ đại Trung Hoa, những tư tưởng của Lão Tử, Khổng Tử, Mặc Tử, những tư tưởng quân sự của Tôn Tử. Hồ Chí Minh còn tiếp thu chủ nghĩa Tam dân của Tôn Trung Sơn, lãnh tụ cách mạng tư sản Trung Quốc, đó là dân tộc độc lập, dân sinh hạnh phúc, dân quyền tự do. Chủ nghĩa Tam dân gần gũi với mục tiêu cách mạng dân tộc dân chủ ở Việt Nam. Hồ Chí Minh còn tiếp thu những tư tưởng của các vĩ nhân Phương Đông như tư tưởng vị tha, bác ái từ bi cứu khổ cứu nạn, thương yêu con người, gắn bó với cuộc sống đấu tranh của nhân dân.
Văn hoá phương Tây: Cùng với văn hoá Phương Đông, tư tưởng Hồ Chí Minh còn có cuội nguồn từ tinh hoa văn hoá Phương Tây. Hồ Chí Minh sớm tiếp thu những tư tưởng tiến bộ dân chủ của Pháp, của Vôn Te, Môngtetskie, G, Rútxô, những tư tưởng tự do, dân chủ, bình đẳng, bác ái của “Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền” của cách mạng tư sản Pháp (1789-1794), những tư tưởng độc lập của bản “Tuyên ngôn độc lập” của Mỹ năm 1776.
Chủ nghĩa Mác-Lênin: Trong di sản văn hoá nhân loại, chủ nghĩa Mác-Lênin là nền tảng của tư tưởng Hồ Chí Minh. Chủ nghĩa Mác-Lênin là thế giới quan, phương pháp luận của Hồ Chí Minh. Từ đó Hồ Chí Minh soi sáng vào thực tiễn các nước thuộc địa châu Á, châu Phi, vào thực tiễn của Việt Nam để hình thành nên những tư tưởng chiến lược, sách lược cách mạng ở một nước thuộc địa. Cũng từ chủ nghĩa Mác-Lênin, Hồ Chí Minh tìm thấy con đường cứu nước và từ người yêu nước chân chính Hồ Chí Minh trở thành người cộng sản.
Nhân tố chủ quan: Tư tưởng là sản phẩm của con người không chỉ do con người nhận thức khách quan mà còn là sản phẩm của tư duy, ý thức chủ quan của nhà tư tưởng. Vì thế cùng nhiều tiền đề xã hội, kinh tế như nhau, cùng một thời đại nhưng ra đời nhiều hệ tư tưởng khác nhau. Tư tưởng Hồ Chí Minh ra đời không ngoài quy luật đó. Ngoài những tiền đề khách quan, tư tưởng Hồ Chí Minh còn là sản phẩm của nhận thức, của năng lực tư duy khái quát thiên tài của Hồ Chí Minh.
Việc Hồ Chí Minh lựa chọn hướng đi sang Pháp, đi sang các nước châu Âu để tìm con đường cứu nước là một bước đi đầu tiên đúng đắn với một nhạy cảm chính trị thiên tài. Hồ Chí Minh sang Pháp với suy nghĩ ban đầu là xem nước Pháp có tự do, bình đẳng, bác ái không ? Nếu có ở nước Pháp thì tại sao ở Đông Dương thuộc địa Pháp lại không có? Người Pháp cũng là con người, ta cũng là con người, họ làm thế nào mà thành cường quốc hùng mạnh, còn dân ta cam chịu nô lệ lầm than? Hồ Chí Minh sang Pháp còn là do tư duy quân sự. Binh pháp nói: biết người, biết ta trăm trận đánh trăm trận thắng. Việt Nam muốn đánh bại chủ nghĩa thực dân Pháp thì phải hiểu nước Pháp.
Nhiều người cùng thời với Hồ Chí Minh sang Pháp nhưng họ không tìm thấy con đường cứu nước vì các bậc tiền bối đi theo kiểu cách mạng của tầng lớp trên. Khác với họ, Nguyễn Ái Quốc đã tự mình biến thành công nhân để tìm đường cứu nước. Là công nhân nên Nguyễn Ái Quốc đã thấu hiểu đời sống khổ cực của công nông, từ đó mới tham gia vào tổ chức của giai cấp công nhân Pháp: Đảng Xã hội. Từ tổ chức Đảng Xã hội Pháp, Hồ Chí Minh mới tìm thấy tác phẩm của Lênin, tìm thấy chủ nghĩa Mác và tìm thấy “cẩm nang” cứu nước.
Ngoài Pháp, Hồ Chí Minh còn đi nhiều nước châu Âu, châu Phi, châu Á để khảo sát thực tế sâu sắc ở các nước, nâng cao trình độ tri thức, hoàn thiện tư tưởng cách mạng thuộc địa. Hồ Chí Minh đã phát hiện những mâu thuẫn của thời đại, những lực lượng đấu tranh trên vũ đài quốc tế, những lực lượng cách mạng thế giới, những lực lượng trong phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc ở thuộc địa và ở Việt Nam, những nhân tố bảo đảm cho thắng lợi của cách mạng Việt Nam.
Từ chủ nghĩa Mác-Lênin, Hồ Chí Minh soi sáng vào nhận thức thực tiễn, giải quyết thực tiễn của cách mạng Việt Nam. Thực tiễn lại bổ sung góp phần phát triển lý luận cách mạng. Tư tưởng Hồ Chí Minh là sản phẩm của tư duy khái quát thiên tài và không ngừng phát triển, không ngừng hoàn thiện qua đúc rút từ kinh nghiêm thực tiễn.
Truyền thống yêu nước của gia đình, của quê hương xứ Nghệ cũng ảnh hưởng nhiều đến Hồ Chí Minh và là một trong các ngọn nguồn hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh.
(Còn nữa)
CVL
------------------------
[1] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IX, NXB. Chính trị Quốc Gia, H. 2001, tr. 83-84.
[2]. Hội đồng Trung ương chỉ đạo biên soạn giáo trình quốc gia các bộ môn khoa học Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, Giáo trình tư tưởng Hồ Chí Minh, NXB Chính trị Quốc Gia, H. 2003, Tr. 19.
[3]. Hồ Chí Minh, Toàn tập, Tập 6, NXB Chính trị Quốc Gia, H. 1995, Tr. 46.