Nhà nho Vũ Khiêu sinh ngày 19/9/1916 tại làng Hành Thiện (xã Xuân Hồng, huyện Xuân Trường), vùng đất địa linh nhân kiệt có bề dày truyền thống văn hiến và cách mạng của tỉnh Nam Định. Từ nhỏ ông là người ham học và học giỏi có tiếng Đất Thành Nam.
Ông tốt nghiệp tú tài trường Bonnal tại Hải Phòng, ngoài việc học ở thầy, ở lớp, giáo sư luôn luôn tự học, tự nghiên cứu để có một khối lượng kiến thức đồ sộ, sâu rộng.
Với bề dày kiến thức có được cộng với uy tín, trong những năm qua, ông đã được Đảng, Nhà nước và các địa phương tin tưởng, đặt hàng soạn nhiều văn bia, văn tế, hoành phi, câu đối,... tại nhiều sự kiện trọng đại của đất nước; hoặc trong các đền đài, các công trình văn hóa trên phạm vi cả nước, ca ngợi, tri ân những anh hùng liệt sỹ đã hy sinh bảo vệ chủ quyền và độc lập dân tộc.
Ông quan niệm Nho sĩ thì điều quan trọng không phải là tiền tài, sự nghiệp, danh vọng, thậm chí cả tri thức cao xa mà là cốt cách con người.
Ông cho rằng: “Nhắc đến nhà Nho nhiều người vẫn nhầm hiểu rằng đó chỉ là những người có “nhiều chữ”. Với nhà Nho Việt, học chữ không quan trọng bằng học hồn cốt, đạo lý của Nho. Tính chất của nhà Nho biểu hiện ở sự khí khái mà tinh tế, hiểu biết mà khiêm nhường, giản dị mà thanh cao. Chất Nho học thể hiện ở nhân cách, phong cách. Nhà Nho coi trọng người quân tử, khinh ghét kẻ tiểu nhân. Không phải ai học Nho thì cũng thấm được chất Nho. Học để có nhiều chữ là một chuyện, nhưng khó nhất là thấm nhuần được cốt cách của Nho để sống cho xứng đáng. Học chữ để làm người”.
Điều mà ông thường nhắc nhở học trò của mình rằng, tri thức không chỉ mang đến niềm vui của sự lao động sáng tạo mà còn là nỗi khổ hạnh. Phải biết chấp nhận những khổ hạnh đó thì mới vươn lên được.
Ông treo trong nhà một chữ “tri” trong đó có lời nhắc “sinh nhi tri, học nhi tri, khốn nhi tri” nghĩa là con người sinh ra vì tri thức, học hành vì tri thức và rồi khốn khổ cũng vì tri thức. Ông cũng nhắc lớp hậu sinh về câu nói của cụ Nguyễn Trãi rằng “cổ lai thức tự đa ưu hoạn” nghĩa là xưa nay những người có tri thức thường gặp ưu tư, hoạn nạn. Bởi vậy nhân cách con người mới là quan trọng, nếu không giữ được nhân cách thì chữ nghĩa, tri thức, học vấn cũng là vô ích.
Người xưa quan niệm cho chữ phải phù hợp với sở nguyện và gia cảnh của người xin. Người cầu tài lộc thì xin chữ tài chữ lộc, người cầu con cái xin chữ phúc, người cầu sức khỏe sống lâu xin chữ thọ… Ngoài cầu may mắn, người ta còn muốn xin cái đức độ, tài năng của ông đồ, lấy chữ để răn mình.
Với nhà nho Vũ Khiêu, cho chữ là để động viên, khuyến khích họ làm tốt những công việc tốt đời hợp đạo lý mà họ đang làm. Nhà nho cho chữ còn để răn đời giữ đạo hiếu với ông bà, tổ tiên, các anh hùng dân tộc. Mỗi chữ của ông đề tặng mang một thông điệp riêng mà chỉ có người nhận mới hiểu hết ý nghĩa thực sự của nó. Những câu đối ông cho đã thực sự trở thành nguồn cảm hứng, tiếp thêm năng lượng cho người được nhận có thêm động lực để hoàn thiện công việc của mình ở đời.
Những vế đối có chiều sâu mang tính hệ thống, đánh giá công tích với đất nước của các bậc tiền nhân, anh hùng, chí sĩ yêu nước lại được nhà nho Vũ Khiêu đặc biệt trân trọng và dành nhiều tâm huyết.
Khi viết về Chủ tịch Hồ Chí Minh, người anh hùng giải phóng dân tộc, danh nhân văn hóa kiệt xuất của nhân loại, nhà nho Vũ Khiêu đã viết:
“Nối nghiệp Hùng Vương: Giữ vững sơn hà cho vạn thế
Theo gương Các Mác: Sáng ngời trí dũng trước năm châu”.
Hay vế đối viết về Đại tướng Võ Nguyên Giáp, người học trò xuất sắc của lãnh tụ Hồ Chí Minh, nhà thiên tài quân sự Văn – Võ song toàn, ông lại viết:
“Võ công truyền Quốc sử
Văn đức quán nhân tâm”.
Đôi khi những câu đối của nhà nho Vũ Khiêu có chút thâm thúy, sâu sắc pha âm hưởng hài hước mà phải suy nghĩ đôi chút mới thấu hiểu hết. Ông có một người bạn thân rất tài hoa, am hiểu văn hóa sâu sắc, là cán bộ cách mạng nhưng bỏ việc về nhà đọc sách ngâm thơ và làm thợ đồng hồ kiếm sống. Đồng cảm với bạn, ông viết tặng câu đối ngày xuân:
“Bảy mươi xuân, quay ngược thời gian, từng giờ, từng phút, từng khắc, từng giây, nghĩ mình chẳng thẹn
Mồng một tết, nhìn ngang thế lộ, ai chậm, ai nhanh, ai sai, ai đúng, rót rượu cùng say”.
Đọc câu đối, ban đầu chỉ thấy toàn là thời gian và đồng hồ, nhưng suy ngẫm kỹ mới nhận ra cái ông thợ đồng hồ này không tầm thường chút nào, đầy khí phách, đầy tài hoa, vậy mà vẫn thấy có gì đó làm ta cay cay sống mũi, một cái gì đó như oan trái, như bi thương…
Vế đối của ông tặng nhà nhiệp ảnh Võ An Ninh là đôi câu đối có “tứ” khá hay. Cụm từ “Nửa mắt nhìn đời...” khiến vế đầu không trở thành câu cầu khiến, mà có thể hiểu là cách ngợi ca, đánh giá khả năng khái quát tài tình của người nghệ sĩ trong những bức ảnh nghệ thuật:
“Nửa mắt nhìn đời, thu cả tinh hoa trời đất lại
Bảy tuần thưởng Tết, bày đầy cảnh sắc cổ kim chơi”.
Có nhiều vế đối của nhà nho Vũ Khiêu được ông sáng tác ngẫu hứng ngày từ những lần gặp mặt đầu tiên. Vế đối nhà nho Vũ Khiêu tặng ông Hồ Huy, Chủ tịch Tập đoàn Mai Linh năm 2009 là một trong những vế đối như vậy. Khi biết Tập đoàn Taxi Mai Linh chuyên làm công tác vận tải với hệ thống trải dài khắp Bắc – Trung – Nam ông đã ngẫu hứng đề tặng:
“Mai hạnh trường huy, ngang dọc sơn hà muôn dặm đất
Linh quang viễn chiếu, ngược xuôi xa mã bốn phương trời”.
Người viết bài này, cũng vinh dự nhiều lần được nhà nho Vũ Khiêu cho chữ. Nhớ lần gặp ông đầu tiên, người viết bài này được ông tặng đôi câu đối:
"Thiên thu hoa thảo bồi nguyên khí
Tứ bích đồ thư thiện chính tâm".
Tết đến xuân về, hoài niệm về nét đẹp xin và cho chữ của người xưa và đôi dòng bày tỏ sự trân quý nhà nho uyên bác, Giáo sư Vũ Khiêu, một trong những “nhà nho cuối cùng” trong thế kỷ XXI.