Là quốc gia từng chứng kiến những tác động của biến đổi khí hậu (BĐKH)lên sự phát triển và đang phải tìm lời giải cho những vấn đề đặt ra về giải pháp ứng phó, Báo cáo quốc gia về Khí hậu và Phát triển (CCDR) hướng vào chuyển đổi mô hình phát triển bằng cách kết hợp lộ trình xây dựng với khả năng chống chịu và khử carbon để cân bằng mục tiêu phát triển.
CCDR là báo cáo đánh giá tích hợp về mối quan tâm BĐKH với phát triển quốc gia nhằm tìm giải pháp ưu tiên giảm phát thải khí nhà kính (KNK) và nâng cao khả năng thích ứng để thực hiện mục tiêu phát triển nền vững, nó được xây dựng trên cơ sở dữ liệu nghiên cứu chặt chẽ kết hợp với lộ trình giảm phát thải KNK và tính dễ bị tổn thương, bao gồm cả chi phí và thách thức cũng như lợi ích và cơ hội của các lộ trình này. Báo cáo đề xuất những hành động cụ thể mang tính ưu tiên hỗ trợ quá trình chuyển dịch sang nền kinh tế carbon thấp, nhằm cung cấp thông tin cho chính phủ, người dân, khu vực tư nhân và các đối tác phát triển cũng như tăng cường hỗ trợ cho các chương trình nghị sự về phát triển và khí hậu,.
Biến đổi khí hậu, thực trạng và những vấn đề đặt ra
Với hơn 3.200 km bờ biển, nhiều thành phố thấp trũng và nhiều đồng bằng ven sông, Việt Nam là một trong những quốc gia dễ bị tổn thương. Tác động của BĐKH.chủ yếu là gia tăng nhiệt độ và nước biển dâng, tạo biến động làm gián đoạn hoạt động kinh tế và suy yếu đà tăng trưởng. Nhiều tính toán cho thấy, vào năm 2020,Việt Nam chịu tổn thất đến 10 tỷ USD, tương đương 3,2% GDP do biến động khí hậu. Nếu không có biện pháp thích ứng và giảm thiểu, tổn thất sẽ lên từ12% đến 14,5% GDP hàng năm vào giữa thế kỷ này,khiến hàng triệu người sẽ lâm vào tình trạng nghèo cùng cực.
Theo các nhà phân tích, thực hiện lộ trình thích ứng khí hậu và phát thải ròng bằng “0”, từ nay đến năm 2040, Việt Nam cần đầu tư thêm 368 tỷ USD (khoảng 6,8% GDP). Nếu có chính sách và chiến lược phù hợp, có thể tận dụng được hoạt động khử carbon để đạt được mục tiêu phát thải ròng bằng “0” mà không làm giảm tốc độ tăng trưởng GDP. Theo đó, những cam kết của Chính phủ có thể được củng cố bằng sự tham gia tích cực của khu vực tư nhân trong nước và các nguồn lực tài chính từ bên ngoài. (World Bank Group 2022)
BĐKH năm 2020 ở Việt Nam
Nhằm giúp Việt Nam xây dựng chiến lược ứng phó với BĐKH tương lai, báo cáo CCRD tập trung đưa ra giải pháp và phương án nâng cao khả năng thích ứng với khí hậu, hoàn thành cam kết phát thải ròng bằng “0” vào năm 2050, đồng thời đảm bảo một “quá trình chuyển dịch công bằng” để hỗ trợ quá trình chuyển đổi sang nền kinh tế carbon thấp và chống chịu với khí hậu,
Vấn đề đặt ra từ BĐKH tại Việt Nam
Trong thông cáo báo chí ngày 2 tháng 7 năm 2022, Nhóm Ngân hàng Thế giới (W.B) đã nhấn mạnh tính cấp thiết của thích ứng BĐKH, đồng thời với triển khai nhiều chính sách đầu tư công-tư để giảm cường độ carbon.trong điều kiện100 triệu dân Việt Nam dễ bị tổn thương đang phải đối mặt với nhiều rủi ro.
Tổng lượng phát thải khí nhà kính (KNK) củaViệt Nam không lớn, chỉ chiếm 0,8% toàn cầu; bình quân đầu người chưa bằng 1/2 so với nhóm nước trong Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế (OECD, nhưng tốc độ lại cao nhất thế giới với mức gia tăng trên 4 lần trong giai đoạn 2000-2018(từ 0,79 tấn carbon dioxide (CO2) lên 3,81 tấn vào năm 2018). Ô nhiễm liên quan đến khí thải đã ảnh hưởng đến sức khỏe, làm giảm năng suất; cạn kiệt tài nguyên; tác động của BĐKH đã làm tổn hại nhiều đến thương mại và đầu tư.
Theo Phó Chủ tịch phụ trách Đông Á-Thái Bình Dương của Ngân hàng Thế giới, Manuela V. Ferro “Việt Nam phải dành nguồn lực lớn để bảo vệ Thành phố Hồ Chí Minh, một đô thị lớn nhất cả nước, những đường bờ biển trũng thấp và vùng Đồng bằng sông Cửu Long khỏi tác động của BĐKH," Ông cho biết thêm “Việt Nam là quốc gia đóng góp ngày càng nhiều vào phát thải KNK. Việc thực hiện các cam kết quốc tế đầy tham vọng của Việt Nam đòi hỏi phải có hành động trong lĩnh vực phát thải chính như năng lượng, giao thông, nông nghiệp và công nghiệp chế biến, chế tạo, và sử dụng định giá carbon để thúc đẩy đầu tư”.(W,B 2022)
Với mục tiêu đưa phát thải ròng về 0, tại COP 26 ở Glasgow, Việt Nam đã cam kết chấm dứt phá rừng vào năm 2030, giảm 30% lượng khí thải mêtan và chấm dứt mọi hoạt động đầu tư vào sản xuất điện than mới, mở rộng quy mô triển khai năng lượng tái tạo và loại bỏ điện than vào những năm 2040. Theo đó, mục tiêu giảm phát thải không điều kiện so với năm cơ sở 2014 là 9% vào năm 2030 và mục tiêu giảm phát thải có điều kiện là 27%.
Để đạt được các mục tiêu phát triển, đồng thời thực hiện những cam kết về khí hậu, CCDR đã đưa ra những giải pháp quan trọng, đó là nâng cao khả năng chống chịu với tác động của khí hậu và theo đuổi chiến lược tăng trưởng theo hướng giảm dần năng lượng thâm dụng carbon. Những lộ trình đưa ra có thể giúp Việt Nam đạt được mục tiêu về khí hậu đồng thời tăng GDP bình quân đầu người hơn 5%/năm là mức cần thiết để trở thành nước thu nhập cao vào năm 2045.
Nếu không có biện pháp thích ứng và toàn diện, BĐKH có thể dẫn đến từ 40 vạn đến 1 triệu người sẽ rơi vào cảnh nghèo cùng cực trong năm 2030. Để bảo vệ những người dễ bị tổn thương trước giá năng lượng tăng cao và gián đoạn việc làm trong quá trình chuyển dịch sang nền kinh tế carbon thấp, Việt Nam cần phải đẩy mạnh các chương trình khuyến khích khu vực tư nhân áp dụng những công nghệ sạch hơn và tạo thuận lợi cho dịch chuyển lao động.
Những ưu tiên chính sách, đề xuất của các nhà nghiên cứu và quản lý
Thực hiện quá trình phát triển thích ứng với khí hậu và phát thải ròng bằng “0”,Nhóm chuyên gia xây dựng báo cáo quốc gia về Khí hậu và Phát triển đã đề xuất một lộ trình xây dựng và khả năng thích ứng. Theo đó, đã nhấn mạnh đến việc bảo vệ tài sản, cơ sở hạ tầng và con người đồng thời với lộ trình khử carbon
Về bảo vệ tài sản, cơ sở hạ tầng và con người của đất nước, báo cáo CCRD đã đề cập đến nội dung của những biện pháp thích ứng tập trung vào từng lĩnh vực và địa điểm dễ bị tổn thương, đặc biệt trong nông nghiệp, giao thông, thương mại và công nghiệp ở vùng ven biển và Đồng bằng sông Cửu Long; các cải cách tài khóa và đầu tư tài chính cả khu vực công lẫn tư với tổng trị giá khoảng 254 tỷ USD trong giai đoạn từ 2022 đến năm 2040, bao gồm khoảng 219 tỷ USD để nâng cấp tài sản hạ tầng công cộng, và 35 tỷ USD cho các chương trình xã hội.
Đối với lộ trình khử carbon hướng tới đưa Việt Nam đạt được mục tiêu phát thải khí nhà kính ròng bằng “0” vào năm 2050; cần đầu tư lớn vào năng lượng, giao thông, nông nghiệp và công nghiệp. Các khoản đầu tư ngành sẽ được hỗ trợ bởi công cụ định giá carbon. Công cụ này sẽ thay đổi hành vi và giúp huy động vốn cho quá trình chuyển đổi. Theo đó, thuế carbon sẽ lên 29 USD trên mỗi tấn carbon dioxide tương đương (tCO2e) vào năm 2030 và 90 USD trên mỗi tCO2e vào năm 2040 để tạo ra nguồn thu bổ sung khoảng 80 tỷ USD. Các biện pháp hỗ trợ sẽ giúp đạt được mục tiêu phát thải ròng bằng 0 mà không làm chậm nhịp độ tăng trưởng GDP.
Trong lộ trình khử carbon, tổng nhu cầu vốn trong giai đoạn 2022- 2040 lên tới 114 tỷ USD, tập trung chủ yếu vào hỗ trợ quá trình chuyển dịch năng lượng, một phần cho công nghiệp, giao thông và nông nghiệp . Các chương trình hỗ trợ xã hội khoảng 33 tỷ USD.
Để tài trợ cho quá trình chuyển đổi, các nhà nghiên cứu cho rằng, cần huy động nguồn lực tài chính trong nước và tìm kiếm nguồn hỗ trợ từ nước ngoài.Qua đó, phân bổ lại đầu tư từ khu vực tư nhân trong nước cho các dự án khí hậu, tăng tiết kiệm từ khu vực công và huy động nguồn lực hỗ trợ tài chính từ bên ngoài.
Bằng cách huy động nguồn lực đề xuất, đầu tư công chiếm khoảng 1/3 tổng vốn đầu tư và được tài trợ thông qua thuế carbon hoặc vay thị trường trong nước; nguồn vốn tư nhân tương đương 3,4% GDP mỗi năm có thể được huy động thông qua tín dụng xanh từ các ngân hàng, cổ phiếu xanh và trái phiếu xanh, cũng như áp dụng các công cụ giảm thiểu rủi ro.
Trả lời những vân đề đặt ra trong hành động thích ứng với BĐKH trong điều kiện bất định của những nỗ lực giảm thiểu toàn cầu như chi phí cắt giảm phát khí nhà kính? Huy động sự tham gia của khu vực tư để đạt được mục tiêu khí hậu? Đánh đổi giữa đầu tư thích ứng với giảm thiểu hoặc giữa tăng trưởng kinh tế, với giảm nghèo và hành động vì khí hậu ? Những ngành và khu vực cần được ưu tiên và tác động lên những nhóm người khác nhau của lộ trình tăng trưởng carbon thấp? các nhà nhà nghiên cứu và quản lý đã đề xuất 5 gói chính sách ưu tiên bao gồm:
Một chương trình cấp vùng cho Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) dễ bị tổn thương
Là nơi đóng góp tới 50% sản lượng lúa gạo và 1/3 GDP nông nghiệp của đất nước, ĐBSCL đang đối mặt với những rủi ro xói lở bờ biển và bờ sông, mực nước biển dâng và xâm nhập mặn. Chương trình thực hiện sẽ hạn chế khai thác cát và nước ngầm, đầu tư thêm cơ sở vật chất và tăng cường điều phối vùng, đồng thời hỗ trợ sinh kế cho người dân đang tìm giải pháp thích ứng với những thách thức của BĐKH.
Sạt lở ở Bình Tân, huyện Châu Phú (An Giang)Ảnh: TTXVN
Một kế hoạch tổng hợp bảo vệ các đô thị ven biển và kết nối giao thông khỏi tác động của thời tiết khắc nghiệt. Kế hoạch này bao gồm hoạt động nâng cấp hệ thống đường bộ và năng lượng, cũng như tăng cường hệ thống quản lý rủi ro thời tiết và cảnh báo sớm.
Một chương trình giảm ô nhiễm không khí bao quanh khu vực Hà Nội, nơi chất lượng không khí kém đã vượt quá 5 lần giới hạn hướng dẫn của Tổ chức Y tế Thế giới(WHO) trong những năm từ 2018 đến 2021, và dự báo nồng độ bụi mịn đang còn tiếp tục gia tăng.
Tăng tốc quá trình chuyển dịch sang năng lượng tái tạo bằng cách cải thiện khung pháp lý để khuyến khích sự tham gia của khu vực tư nhân đầu tư tăng công suất của lưới điện và thực hiện các kế hoạch tiết kiệm năng lượng.
Mở rộng an sinh xã hội để bù đắp những tác động kinh tế mà giải pháp khí hậu có thể tác động đến người dân dễ bị tổn thương Qua đó, cần tài trợ cho các chương trình xã hội bằng nguồn thu từ thuế carbon; việc làm này sẽ giúp hỗ trợ người nghèo khỏi tác động của việc tăng chi phí đi lại và năng lượng.
Báo cáo ước tính giá trị hiện tại của đầu tư thêm vào các giải pháp thích ứng và giảm nhẹ tác động của biến đổi khí hậu từ nay đến năm 2040 lên khoảng 6,8% GDP mỗi năm, Việt Nam cần bổ sung đầu tư công bằng cải cách chính sách để thu hút đầu tư tư nhân. Theo ước tính, các dự án đầu tư ưu tiên cho thích ứng đến năm 2040 có thể cần khoảng 254 tỷ USD, Thuế carbon hoặc các quy định hình thành hệ thống mua bán khí thải là chìa khóa để đạt được mục tiêu phát triển và khí hậu đặt ra.
Theo Phó Chủ tịch Châu Á-Thái Bình Dương của Tập đoàn Tài chính Quốc tế (IFC) Alfonso Garcia Mora “Mục tiêu trở thành quốc gia có thu nhập cao và phát thải ròng bằng “0” trong 30 năm tới, đòi hỏi Việt Nam phải huy động một lượng lớn vốn tư nhân. Để điều này trở thành hiện thực, điều quan trọng là Việt Nam phải thiết kế và thực hiện các chính sách và cải cách đúng đắn, ông nhấn mạnh “Xanh hóa lĩnh vực tài chính, thúc đẩy các dự án tăng trưởng xanh trên nhiều lĩnh vực và ban hành quy trình thủ tục minh bạch và dễ đoán cho các dự án năng lượng cần là một ưu tiên rõ ràng”.
Thay cho lời kết
Ngày càng chứng kiến nhiều tác động của biến đổi khí hậu lên sự phát triển đất nước, Việt Nam đã và đang phải trả lời cho những câu hỏi về giải pháp ứng phó với BĐKH. Đề xuất cần chuyển đổi sang mô hình phát triển bằng cách kết hợp lộ trình xây dựng khả năng chống chịu với khử carbon để giúp đất nước cân bằng mục tiêu phát triển là nội dung đạt sự đồng thuận cao
Là một trong những quốc gia dễ bị tổn thương trước BĐKH. Tác động của biến đổi này đã và đang làm gián đoạn kinh tế và suy yếu tăng trưởng. Việt Nam đã đặt ra mục tiêu tham vọng là đạt mức thu nhập cao vào năm 2045. Kết quả chuyển đổi kinh tế đất nước sẽ phụ thuộc nhiều vào hiệu quả quản lý nguồn vốn tự nhiên với trữ lượng lớn của tài nguyên nông nghiệp, rừng và khoáng sản đang cạn dần trước những tác động khó lường của BĐKH.
Để xây dựng chiến lược ứng phó, báo cáo CCDR đề cập đến những giải pháp và phương án nhằm nâng cao khả năng thích ứng kinh tế với khí hậu và hoàn thành cam kết phát thải khí nhà kính ròng bằng “0”; thúc đẩy phát triển kinh tế-xã hội đồng thời với đảm bảo “quá trình chuyển dịch công bằng” để hỗ trợ các tâng lớp xã hội bị ảnh hưởng trong quá trình chuyển đổi sang nền kinh tế carbon thấp và chống chịu với BĐKH.
Hy vọng từ nguyện vọng của người dân và những đóng góp bằng tâm nguyện của các nhà khoa học và quản lý, những đề xuất trong báo cáo quốc gia về Khí hậu và Phát triển sẽ được thực thi để đất nước sớm phát triển đi lên để trở thành quốc gia thu nhập cao./.