Việt Nam trong nền kinh tế Đông Á-Thái Bình Dương

01/10/2022 22:03

Phân tích tình hình kinh tế khu vực, chuyên gia Ngân hàng Thế gới(W.B) nhận xét, tăng trưởng ở các nước đang phát triển Đông Á và Thái Bình Dương (ĐA-TBD)đang hồi phục, nhưng do nhu cầu toàn cầu suy giảm, nợ gia tăng và lệ thuộc vào các biện pháp xử lý nhằm chống đỡ với giá lương thực, thực phẩm và nhiên liệu tăng cao nên còn mang nhiều hệ luỵ.

Trong báo cáo Cập nhật tình hình Kinh tế ĐA-TBD tháng 10 năm 2022 , W.B nhận định, do Trung Quốc, nước đóng góp tới 86% sản lượng của khu vực chỉ tăng trưởng 2,8% trong năm 2022, giảm 2,3 lần so với mức tăng 7,2% của năm 2021; tăng trưởng toàn khu vực sẽ chững lại ở 3,2% trong năm nay Phó Chủ tịch W.B phụ trách Đông Á và Thái Bình Dương, Manuela V. Ferro.cho rằng “Quá trình phục hồi kinh tế đang diễn ra ở hầu hết các nước trong khu vực,”  nhưng “nhiều quốc gia vừa phải đối phó với tốc độ tăng trưởng toàn cầu chững lại, vừa cần xử lý những méo mó chính sách trong nước đang gây trở ngại cho phát triển dài hạn”.

Tăng trưởng đạt được ở hầu hết các nước là nhờ nhu cầu trong nước phục hồi và gia tăng xuất khẩu. Tăng trưởng toàn cầu bị chững lại đã làm giảm nhu cầu xuất khẩu và các mặt hàng chế biến, chế tạo của khu vực ĐA-TBD. Mặt khác, lạm phát, lãi suất gia tăng cùng với dòng vốn chảy ra ngoài và đồng tiền mất giá, làm tăng gánh nặng trả nợ đã thu hẹp dư địa tài khóa.Trong tình trạng giá cả lương thực, thực phẩm và nhiên liệu tăng cao, những giải pháp hỗ trợ nhằm đáp ứng nhu cầu lại làm méo mó các chính sách thực hiện. Biện pháp kiểm soát giá thực phẩm và trợ giá năng lượng, đem lại lợi ích cho người giàu dã ảnh hưởng đến chi tiêu của chính phủ cho hạ tầng, giáo dục và y tế. Các biện pháp giãn hoãn thời gian trả nợ, nới lỏng điều kiện cho vay, khiến nguồn lực bị kẹt ở nhiều doanh nghiệp, tiền vốn đã không đến được những ngành nghề và lĩnh vực năng động nhất.

Chuyên gia kinh tế trưởng khu vực Đông Á và Thái Bình Dương của W.B, Aaditya Mattoo cho rằng“Các nhà hoạch định chính sách đang phải đối mặt với lựa chọn khó khăn giữa xử lý lạm phát và hỗ trợ phục hồi kinh tế,”. Ông nhấn mạnh. “Kiểm soát và trợ giá làm mờ đi tín hiệu giá cả và ảnh hưởng đến năng suất. Chuyển sang những chính sách tốt hơn về lương thực thực phẩm, nhiên liệu và tài chính sẽ vừa thúc đẩy tăng trưởng vừa phòng chống lạm phát.”

Điểm sáng Việt nam và những rủi ro, thách thức

Trong bối cảnh khu vực bất ổn định, Việt Nam đã nổi lên như một điểm sáng. Trên cơ sở cầu nội địa phục hổi và hoạt động chế biến, chế tạo định hướng xuất khẩu phát triển vững chắc, Ngân hàng Thế giới (W.B) và Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB) đã dự báo, tăng trưởng kinh tế Việt Nam có thể đạt từ 7,2%  đến 7,5% trong năm 2022. Cùng với tăng trưởng cao, tỷ lệ hộ nghèo theo chuẩn quốc tế (LMIC của Ngân hàng Thế giới 3,65 đô la Mỹ/ người/ngày 2017 PPP)  giảm từ 3,7% trong năm 2021 xuống còn 3,3% vào năm 2022. Tuy nhiên, nền kinh tế đang phải đối mặt với những rủi ro suy thoái liên quan đến suy giảm kinh tế của các đối tác thương mại,  lạm phát và rủi ro tài chính gia tăng.

t1-1664636492.png

Việt Nam sau 35 năm Đổi mới

Theo nhận định của W.B, nền kinh tế Việt Nam trên đà phục hồi, nhưng vẫn chưa hồi phục hoàn toàn với tổng sản lượng thấp hơn mức trước đại dịch Covid-19. Trong ngắn hạn, các nhà hoạch định chính sách phải đối mặt với nhiệm vụ khó khăn là, hài hòa giữa nhu cầu duy trì chính sách hỗ trợ để củng cố sự phục hồi trong bối cảnh môi trường toàn cầu suy yếu; nhu cầu kiềm chế lạm phát và rủi ro tài chính vẫn còn đang nổi. Trong trung và dài hạn, mục tiêu trở thành nền kinh tế có thu thập trung bình cao phụ thuộc vào chuyển đổi sang mô hình tăng trưởng dựa trên năng suất và đổi mới bằng cách sử dụng hiệu quả nguồn vốn sản xuất, vốn tự nhiên và con người. Quá trình chuyển đổi này, đòi hỏi năng lực thể chế cần được tăng cường để phê duyệt và thực hiện những cải cách cơ cấu, nhằm xây dựng nền kinh tế có khả năng cạnh tranh và phục hồi cao hơn.

Viêt Nam những nét mới được cập nhật

Phân tích thực trạng kinh tế, giới nghiên cứu nhận thấy, sau đợt phong tỏa do COVID-19 vào quý 3 năm 2021, nền kinh tế  Việt Nam đã hồi phục mạnh mẽ với mức tăng 6.4 % trong nửa đầu năm 2022. Sự hồi phục này chủ yếu dựa trên khởi sắc của ngành xuất khẩu và nhu cầu trong nước bị dồn nén được giải phóng, sau khi các quy định về hạn chế đi lại do COVID-19 được gỡ bỏ và gần đây là sự quay trở lại của khách du lịch nước ngoài.

Khu vực dịch vụ đã  tăng trưởng 6,6% trong nửa đầu năm 2022 và ghi nhận mức tăng kỷ lục 8,6% trong Q2 năm 2022.  Được thúc đẩy bởi nhu cầu ổn định từ bên ngoài, khu vực sản xuất công nghiệp tăng trưởng 8,4% trong nửa đầu năm 2022.  Lạm phát trong nền kinh tế nhích lên 3,1% (so với cùng kỳ năm trước) vào tháng 7 năm 2022, chủ yếu là do chi phí vận tải cao, tăng đến 15,2%, cho. dù cơ quan quản lý nhà nước đã nỗ lực kiềm chế áp lực tăng giá xăng dầu thông qua việc cắt giảm thuế tiêu thụ nhiên liệu.

Nền kinh tế đang được phục hồi, nhưng khối doanh nghiệp và hộ gia đình vẫn chịu những  tác động dai dẳng. Khảo sát nhịp độ kinh doanh của Ngân hàng Thế giới thực hiện từ tháng 1 đến tháng 3 năm 2022 cho thấy, 92,6% số công ty chính thức đã hoạt động trở lại, nhưng tới 56% báo cáo doanh số bán hàng từ tháng 1 đến tháng 3 năm 2022 thấp hơn so với trước đại dịch. Thị trường lao động tuy được cải thiện, nhưng tỷ lệ lao động tham gia mới đạt 68,5% trong quý 2-2022 (thấp hơn tỷ lệ trước đại dịch là 71,3%). Bên cạnh đó, gần 20% hộ gia đình cho biết thu nhập trong 7 tháng đầu năm thấp hơn so với cùng kỳ năm trước.

Vị thế đối ngoại của nền kinh tế được duy trì ổn định, song tài khoản vãng lai bị thâm hụt 1,5 tỷ USD trong Q1 năm 2022.  Phân tích  thực trạng, giới nghiên cứu nhận thấy, sự suy giảm cán cân thương mại hàng hóa và dịch vụ không thiết yếu lên tới1,5 tỷ USD so với Q1 của năm 2021, Trong đó, thương mại hàng hóa bị ảnh hưởng bởi cán cân thương mại hàng hóa kém hơn trước. Cân bằng thương mại hàng hóa giảm 3,1% trong Q1năm 2022, làm trầm trọng thêm mức giảm 9,6% trong sáu tháng cuối năm 2021. Về mặt khác, cán cân tài chính cũng ghi nhận mức thặng dư 3,5 tỷ USD trong Q1năm2022, nhờ nguồn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) gia tăng 3,4 tỷ USD. Chính sách tiền tệ thích ứng tạo thanh khoản dồi dào cùng với tăng trưởng tín dụng đạt 16,9% vào tháng 6 năm 2022, vượt đáng kể mức tăng trưởng GDP danh nghĩa. Tuy nhiên, NHNN đã dừng các biện pháp nới lỏng được áp dụng vào tháng 4 năm 2020, đây là động thái quan trọng để xác định và xử lý các tài sản xấu có thể đã tích tụ trong cuộc khủng hoảng.

Cho dù không gian tài khóa vẫn dồi dào, thặng dư ngân sách được ghi nhận đến tháng 6 năm 2022 ở mức 9,6 tỷ USD; Chương trình hỗ trợ phục hồi kinh tế (chiếm 4,5% GDP), được thông qua vào tháng 1 năm 2022 đã mở rộng thêm không gian cho các chương trình hỗ trợ tài chính bổ sung nhưng tiến độ triển khai còn chậm. Nợ của Việt Nam ở mức 39,9% so với GDP được cho là bền vững và thấp hơn đáng kể so với ngưỡng 60% do Quốc hội đề ra.

Triển vọng kinh tế Việt Nam từ góc nhìn Ngân hàng Thé giới

Giống như các quốc gia Đông Á, nền kinh tế Việt Nam được dự báo sẽ phục hồi vào năm 2022, với mức tăng trưởng khá cao lên tới 7,2%. Động lực tăng trưởng được dự báo sẽ xoay quanh nhu cầu gia tăng từ trong nước và ở nước ngoài. Ngành chế biến, chế tạo và dịch vụ có triển vọng mở rộng xuất khẩu sang các thị trường lớn như Hoa Kỳ, khu vực đồng tiền chung châu Âu và Trung Quốc.  Do biến động giá cả hàng hóa; lạm phát được dự báo tăng lên 3,8% vào năm 2022 và 4% vào năm 2023, trước khi giảm xuống 3,3% vào năm 2024.

t2-1664636514.png

Triển vọng tăng trưởng kinh tế Việt Nam

Chi tiêu công dự kiến sẽ tăng nhanh trong nửa sau của năm 2022 và thâm hụt tài khóa của năm 2022 sẽ đạt 2,8% GDP. Mức thâm hụt này được dự báo sẽ tăng nhẹ lên 3,2% GDP nếu việc triển khai thực hiện các chương trình hỗ trợ của năm 2022-2023 được đẩy mạnh. Sau thời gian đình trệ do cuộc khủng hoảng COVID-19, tốc độ giảm nghèo dự kiến sẽ tăng lên,

Triển vọng của nền kinh tế cho thấy, tương lai vẫn còn tiềm ẩn rủi ro. Những rủi ro từ bên ngoài bao gồm áp lực lạm phát toàn cầu dai dẳng và suy giảm kinh tế sâu hơn dự kiến của các đối tác thương mại chính của Việt Nam như Hoa Kỳ, khu vực đồng Euro và Trung Quốc; mặt khác là sự gián đoạn tiếp diễn trong chuỗi giá trị toàn cầu (GVC). Về rủi ro trong nước,bao gồm lạm phát cao hơn dự kiến, thiếu lao động trong các khu vực sản xuất và rủi ro tài chính gia tăng ,có thể ảnh hưởng đến triển vọng tăng trưởng.

Về ngắn hạn, trong bối cảnh nền kinh tế đang phục hồi và lạm phát trong tầm kiểm soát; chính sách tiền tệ thích ứng được triển khai phù hợp trong môi trường tài khóa có tính hỗ trợ sẽ giúp phòng ngừa nguy cơ suy giảm tăng trưởng. Điều này mang hàm nghĩa cần sử dụng ngân sách và thực hiện chương trình hỗ trợ hiệu quả hơn khi mà điều kiện tài chính của hộ gia đình còn bấp bênh, nhất là những hộ nghèo cần được xã hội tiếp tục hỗ trợ.

Mặc dù có nhiều triển vọng phát triển, song các nhà phân tích cũng đã lưu ý, nếu lạm phát tăng nhanh trên 4% cùng với lạm phát cơ bản gia tăng, các cơ quan chức năng cũng cần xem xét điều chỉnh lại chính sách tài khóa và tiền tệ. Rủi ro tài chính gia tăng đòi hỏi phải tăng cường giám sát, báo cáo và trích lập dự phòng nợ xấu, đồng thời cải thiện các cơ chế giải quyết vấn đề mất khả năng thanh toán của doanh nghiệp và khu vực ngân hàng./.

TS Lê Thành Ý
Bạn đang đọc bài viết "Việt Nam trong nền kinh tế Đông Á-Thái Bình Dương" tại chuyên mục Góc nhìn chuyên gia. Hotline: 0846460404 - Liên hệ Quảng cáo: 0912563309