Báo cáo điểm lại tháng 3/2025 của Ngân hàng Thế giới tại Việt Nam

Việt Nam gia nhập Nhóm Ngân hàng Thế giới vào ngày 21 tháng 9 năm 1956. Trước những năm 1986, Việt Nam là một trong những nước kém phát triển nhất thế giới. Chuyển đổi từ kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang kinh tế thị trường đã giúp Việt Nam từ một trong những quốc gia nghèo nhất thế giới thành nước có thu nhập trung bình thấp. Việt Nam hiện là một trong những quốc gia năng động nhất Đông Á Thái Bình Dương.

Đông Á và Thái Bình Dương trong tương quan của nền kinh tế toàn cầu, đã nổi lên như một mẫu hình về phát triển năng động nhưng đang  phải đối mặt với nhiều thách thức thức như căng thẳng toàn cầu định hình thương mại và đầu tư trong khu vực? Sự bất ổn toàn cầu gia tăng sẽ tác động đến khu vực? Công nghệ mới như robot, AI và nền tảng kỹ thuật số ảnh hưởng đến việc làm và tiền lương ? 

Từ góc nhìn nghiên cứu toàn cầu, Giám đốc Ngân hàng Thế giới tại Việt Nam, Campuchia và Lào nhận xét: "Trong những năm tới kinh tế Việt Nam được dự báo sẽ tiếp tục tăng trưởng mạnh mẽ. Việt Nam có thể sử dụng dư địa tài khóa của mình để chuẩn bị tốt hơn cho những bất ổn gia tăng”, bà nhấn mạnh "Đầu tư công thúc đẩy tăng trưởng, đặc biệt là trong lĩnh vực hạ tầng đô thị, giao thông và năng lượng với điều kiện chính quyền có thể tăng quy mô đầu tư công và đảm bảo chi tiêu hiệu quả”. Bài viết tổng hợp một cố nội dung nổi bạt của báo cáo này.

kt-1742893561.png

Tốc độ tăng trưởng kinh tế Việt Nam và các yếu tố ảnh hưởng  (Ảnh VN University) 

Báo cáo Điểm lại với những cập nhật của Ngân hàng Thế giới

Báo cáo  Điểm lại là báo cáo cập nhật tình hình kinh tế của Ngân hàng Thế giới dành cho Việt Nam, được xuất bản hai lần mỗi năm. Báo cáo cung cấp thông tin chi tiết về triển vọng kinh tế và chiến lược tăng trưởng của quốc gia được thực hiện bởi nhóm chuyên gia của Ngân hàng Thế giới và những chuyên gia tư vấn. Tính chính xác, đầy đủ hoặc tính thời sự của dữ liệu sử dụng tuy còn hạn chế, nhưng không hàm ý bất kỳ đánh giá nào của Ngân hàng Thế giới về vị thế pháp lý của bất kỳ vùng lãnh thổ nào và cũng không thể hiện bất kỳ sự ủng hộ hay chấp nhận nào của Ngân hàng Thế giới về các đường biên giới đó. Không có nội dung nào trong báo cáo cấu thành hoặc được hiểu hoặc được coi là hạn chế hay từ bỏ các đặc quyền và miễn trừ của Ngân hàng Thế giới. Báo cáo này là sản phẩm do chuyên gia của Ngân hàng Thế giới và các chuyên gia tư vấn thực hiện. Các kết quả, giải thích và kết luận đưa ra trong báo cáo chưa phản ánh quan điểm chính thức của Ngân hàng Thế giới, nhưng không hàm ý bất kỳ đánh giá nào của Ngân hàng Thế giới về vị thế pháp lý của bất kỳ vùng lãnh thổ nào

Thông cáo báo chí của W.B phát đi từ Hà Nội ngày 12 tháng 3 năm 2025 cho biết, GDP thực của Việt Nam được dự báo sẽ tăng trưởng 6,8% vào năm 2025 và 6,5% vào năm 2026, theo báo cáo cập nhật kinh tế mới nhất của Ngân hàng Thế giới cho Việt Nam – Điểm lại – được công bố cùng ngày.

Tăng trưởng kinh tế của Việt Nam trong năm 2024 được hỗ trợ nhờ sự phục hồi của xuất khẩu, do nhu cầu toàn cầu về các sản phẩm công nghệ gia tăng. Tuy nhiên, đà tăng trưởng dự kiến sẽ chậm lại trong năm nay. Những bất ổn chính đối với triển vọng tăng trưởng bao gồm tăng trưởng toàn cầu chậm hơn dự kiến và gián đoạn thương mại, đặc biệt là giữa các đối tác thương mại lớn của Việt Nam.

Dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) được dự báo sẽ duy trì ổn định ở mức khoảng 25 tỷ USD (giải ngân), phản ánh sức hấp dẫn liên tục của Việt Nam đối với các nhà đầu tư toàn cầu. Việc tăng cường đầu tư công và sự phục hồi nhanh chóng của thị trường bất động sản, nhờ đẩy nhanh quá trình giải phóng mặt bằng, có thể hỗ trợ nhu cầu trong nước, bù đắp phần nào các rủi ro bên ngoài.

Để đối phó với những bất ổn ngày càng gia tăng, báo cáo khuyến nghị các chiến lược để duy trì tăng trưởng, bao gồm: tăng cường đầu tư công, giải quyết các điểm yếu trong lĩnh vực tài chính, thúc đẩy khả năng chống chịu của ngành năng lượng và đẩy mạnh cải cách cơ cấu.

Trong hai năm tới kinh tế Việt Nam được dự báo sẽ tiếp tục tăng trưởng mạnh. Tuy nhiên, vẫn có thể sử dụng dư địa tài khóa để chuẩn bị tốt hơn cho những bất ổn gia tăng.

Chuyển đổi sang Xe điện tại Việt Nam - Một “Hành trình bứt phá”

kt1-1742893562.png

Những hàng dài xe điện VinFast chờ xuất xưởng cho Indonesia gần tàu chở hàng tại cảng Hải Phòng, Việt Nam vào ngày 8/3/2025  (Ảnh: VinFast Indonesia)

Với tiêu đề "Hành trình Bứt phá: Chuyển đổi sang Xe điện tại Việt Nam" báo cáo nhấn mạnh việc thúc đẩy chuyển đổi sang xe điện là một bước quan trọng trong việc tạo ra một ngành giao thông xanh hơn cho Việt Nam đồng thời giảm ô nhiễm không khí tại các thành phố. Năm 2021, lượng khí phát thải từ ngành giao thông vận tải lên tới là 32,9 triệu tấn CO2 tương đương (CO2e), chiếm 7,2% tổng lượng khí phát thải nhà kính của cả nước. Để đạt được mục tiêu khí phát thải ròng bằng không (net-zero) vào năm 2050, Việt Nam  cần ưu tiên điện khí hóa phương tiện giao thông.

Việc chuyển đổi sang xe điện (EV) có thể giúp giảm lượng khí phát thải ròng 2,2 triệu tấn CO2e vào năm 2050, ngay với hệ thống lưới điện hiện tại. Đồng thời, quá trình này cũng có thể tạo ra tới 6,5 triệu việc làm vào năm 2050, đặc biệt là trong lĩnh vực sản xuất pin và phát triển cơ sở hạ tầng sạc điện.

Để đẩy nhanh việc áp dụng EV trong phân khúc xe hai bánh, báo cáo khuyến nghị thực hiện các tiêu chuẩn an toàn mạnh mẽ, khuyến khích sử dụng pin hiệu suất cao, mở rộng trạm sạc và hoán đổi pin, đồng thời đưa ra các hỗ trợ về tài chính để bù đắp chi phí ban đầu.

Nhằm đặt nền móng cho việc sử dụng xe điện ở quy mô lớn dự kiến sẽ diễn ra sau năm 2035, Việt Nam cần chuẩn bị hệ thống điện có khả năng đáp ứng nhu cầu điện ngày một gia tăng và thiết lập mạng lưới sạc nhanh trong thập kỷ tới.