“Bộ đội Cụ Hồ” và “Đội quân nhà Phật” (Kỳ 3)

Kỳ 3: Nóng bỏng mặt trận miền duyên hải Campuchia.

Đã qua nhiều trận đánh, những người lính mới chúng tôi bắt đầu dạn dày, gan góc, càng đánh càng hăng, không biết sợ chết là gì. Chúng tôi rất tự hào với truyền thống Sư đoàn 304 anh hùng và nghĩ mình cũng xứng danh là lính của Sư đoàn "quả đấm thép" của Quân đội Nhân dân Việt Nam.

Đánh địch để mở đường hành quân

Từ ngày 3-1-1979 và những ngày tiếp theo, đơn vị tôi tiếp tục tiến sâu, phá tan nhiều tuyến phòng ngự của địch, giải phóng một vùng rộng lớn. Những trận chiến cứ thế nối tiếp theo thời gian không dừng lại khi chưa quét sạch bọn giặc Khmer Đỏ tàn bạo. Đó là quân lệnh, cũng là tiếng vọng thiêng liêng của hàng vạn linh hồn đồng bào ta ở các tỉnh biên giới bị chúng giết hại dã man suốt từ năm 1975 đến 1978. Là lời khẩn cầu của người dân Campuchia trước họa bị diệt chủng.

Sư đoàn 304 là một cánh quân tham gia đánh vào Phnom Penh từ hướng đông – nam tỉnh Takeo, Kandal lên, nhưng do các sư đoàn bạn đã đánh chiếm được Phnom Penh từ ngày 7-1-1979 nên đơn vị được lệnh đánh xuống mặt trận phía Nam Campuchia, giải cứu lữ đoàn thiết giáp lính thủy đánh bộ của ta đang bị bọn địch vây đánh do thiếu bộ binh phối hợp tác chiến.

Từ 7-1-1979, trung đoàn 9 (F304) chúng tôi được chi viện xe tăng, xe bọc thép M.113 và pháo cao xạ 37 ly (loại 2 nòng còn mới tinh do Trung Quốc viện trợ cho Khmer Đỏ thì ta thu được) tiến về mặt trận phía Nam Campuchia. Trên đường lộ, do một chiếc cầu yếu nên bị sập khi chiếc tăng T-54 dẫn đầu đi qua, cả đoàn xe phải chờ đi đường tránh và vượt ngầm, tiếp tục tiến quân giải phóng thị xã Kampot, Takeo, nghỉ lại đêm trong một khu đô thị rồi tiếp tục vừa hành quân, vừa đánh địch trong hành tiến.

5a75f406f4154a4b1304-1739756924.jpg

Tác giả thăm lại chiến trường xưa sau 46 năm ở khu vực cổng vào Quân cảng Ream (Campuchia) nơi đơn vị từng chiến đấu tháng 1-1979

Chúng tôi đi qua những làng mạc và đô thị có vẻ hoang tàn vì dân cư đã bị chính quyền Khmer Đỏ lùa ra khỏi thành phố. Địch nhiều lần phục kích, bắn pháo vào đội hình, một quả đạn ĐKZ của địch bắn trúng xuyên táo chiếc xe bọc thép M.113 của ta, nhưng thật may mắn, đạn không nổ. Những lần bị địch đánh chặn như vậy, chúng tôi dừng lại triển khai đội hình chiến đấu, rồi lại lên xe cơ động cho kịp thời gian hợp đồng tác chiến với hải quân đánh bộ của ta ở mặt trận các tỉnh phía nam Campuchia.

Dọc đường hành quân, khẩu đội tôi giá súng 12ly7 trên thùng chiếc xe tải Zil 130, nhưng khi bắn thì súng giật tung, 2 xạ thủ to khỏe ôm chân súng cũng không giữ nổi. Trước tình huống này, nhớ lời trung đội trưởng trong huấn luyện, tôi nhanh trí yêu cầu xe hậu cần cho mượn 3 bao gạo, mỗi bao chừng 50 kg đem chặn lên 3 chân súng, vậy là ổn và bắn rất tốt. Suốt cả trăm km hành quân, chúng tôi cứ đứng trên thùng xe quan sát và nã đạn vào địch.

Lòng kiêu hãnh của “Bộ đội Cụ Hồ”

Đã hai ngày đêm trên đường tiến quân, bất ngờ, địch phục kích bắn dữ dội vào đoàn xe đơn vị, tôi nổ súng bắn trả tức khắc như mọi khi thì khẩu 12ly7 chỉ nổ đúng một phát rồi tịt. Vỏ đạn kẹt cứng trong buồng đạn, gờ đít đạn bị sứt nên quy lát không thể tự động móc vỏ đạn ra. Thông nòng, lên đạn bắn tiếp mấy lần đều chỉ bắn phát một, không bắn liên thanh được. Trời ạ, tình huống này trong huấn luyện có ai dạy đâu. Đại đội phó Hà Huy Bớ thấy 12ly7 im tiếng thì hét lên:

- 12ly7 bắn đi, 12ly7 bắn đi, bắn đi.

- Báo cáo, súng bị hóc. Tôi la lớn, vừa ức, vừa định nói: Tôi muốn bắn lắm chứ. Nhưng mà sao mày hại tao giữa lúc nước sôi lửa bỏng này hả súng ơi!

Đạn bắn thẳng của địch trúng thành xe kêu loác toác, phía trước có đồng đội đã ngã xuống. May mắn tôi và Liễn (xạ thủ số 2) ở trên xe chưa bị trúng đạn, vẫn loay hoay bên súng nghĩ cách khắc phục. Đại đội phó từng là lính chuyên súng 12ly7 leo lên xe cùng chúng tôi xử lý nhưng cũng bó tay, nhảy xuống xe ra lệnh:

- Không bắn được thì cả khẩu đội đi vác đạn cho cối 82.

Tuy nghe rõ mệnh lệnh của chỉ huy, nhưng vì lòng kiêu hãnh của người lính đang xung trận, không cho phép chúng tôi rời bỏ súng đi vác đạn, dù rằng, đó cũng là chiến đấu. Từ nguyên lý súng, tôi đoán nguyên nhân do mấy ngày đêm vừa hành quân vừa bắn, không lau chùi nên buồng đạn ám thuốc súng, gây gỉ sét làm kẹt vỏ đạn. Ý nghĩ thoáng qua, tôi liền mở nắp tiếp đạn, kéo quy lát, thử dùng tuýp dầu lau súng mang theo xịt vào buồng đạn rồi đưa ngón tay trỏ ngoáy cho trơn, xong nạp đạn, siết cò.

Khỏi phải nói cả đơn vị vui sướng đến chừng nào, khẩu 12ly7 sát cánh từ đầu chiến dịch đã khạc lửa giòn giã. Bất ngờ hơn cả là bọn lính Khmer Đỏ vừa bắn ĐKZ phụt khói phía xa kia thì bị chúng tôi phát hiện và những loạt đạn 12ly7 bắn thẳng trong cự ly hiệu quả buộc chúng phải câm họng ngay lập tức. Khi quan sát để điều chỉnh bắn, tôi thấy những viên đạn vạch đường nối đuôi nhau bay đến mục tiêu, chúng đã bị tiêu diệt.

Mấy chiến sĩ bộ binh của ta đang lom khom tiến dưới làn đạn yểm trợ của hỏa lực 12ly7. Có lẽ vì tiếng nổ trước nòng súng nghe chát chúa, với lại, đôi lúc tôi rê nòng bắn trúng mấy tàu dừa ở trên cao nên anh em lo, hét rõ to:

-       Nâng tầm lên không trúng quân ta bây giờ!

-       Không sao đâu, tầm cao lắm! Tôi trả lời và cười thầm trong bụng: Cao nữa thì có mà bắn chim à!

 Đơn vị tiếp tục hành quân theo đường tỉnh lộ hướng về quân cảng Ream, nơi đó, một lữ đoàn hải quân đánh bộ của ta đang chuẩn bị đổ bộ, hợp đồng quân binh chủng với đơn vị tôi giải phóng quân cảng.

Trận đánh chiếm quân cảng Ream

Căn cứ hải quân Ream thuộc tỉnh Sihanoukville nằm ở tây bắc đảo Phú Quốc, cách Phú Quốc chừng 25km, nằm trong tầm bắn của pháo hạng nặng cỡ 130mm. Đây là một quân cảng tiền đồn của lực lượng hải quân Khmer Đỏ nên chúng bố trí lực lượng phòng thủ khá mạnh. Tại căn cứ Ream có nhiều tàu chiến, gồm tàu tuần tiễu, tàu phóng lôi, tàu quét mìn và các thuyền chiến đấu. Địch ước tính có trên 1.100 tên. Chúng tôi phải chiến đấu với một lực lượng tinh nhuệ của Khmer Đỏ đang quyết bám trụ căn cứ tiền đồn hải quân này.

227d214625559b0bc244-1739756924.jpg

Tác giả thăm lại quân cảng Ream, Campuchia- Cổng chính vào Quân cảng Ream - nơi chiến trường xưa, từng thấm máu chính mình và đồng đội

Gần trưa ngày 9-1-1979, mũi tiến công của trung đoàn tôi đã đánh chiếm sân bay Sihanouk (nay là sân bay quốc tế Sihanouk). Trước đó, đáng tiếc bộ binh ta không đến kịp, nhiều xe bọc thép lội nước BTR-50PK của hải quân đánh bộ bị địch phục kích bắn cháy còn nằm rải rác hai bên đường ở khu vực ngã ba đi cảng Ream – Sihanoukville, thuộc phum Thma Thum.

Xế chiều, chúng tôi tiếp cận cửa ngõ vào cảng Ream. Đường vào quân cảng độc đạo, một bên rừng núi, một bên là biển, các ổ kháng cự của địch quyết chặn quân ta chờ trời tối, lợi dụng thuộc địa hình để phản công.

Trận đánh giằng co, địch chống trả điên cuồng nhưng chúng không cản nổi sức tấn công như vũ bão của bộ binh ta với sự chi viện của pháo binh hải quân bắn từ tàu chiến bắn lên. Quân ta đã phá vỡ tuyến phòng ngự bảo vệ quân cảng, quân địch số bị tiêu diệt, số còn lại tháo chạy. Trong khói lửa và tiếng súng, các chiến sĩ đơn vị tôi và đơn vị thủy quân lục chiến của ta đổ bộ từ tàu hải quân lên, tiến vào giải phóng hoàn toàn quân cảng Ream. Chúng tôi bắn nhau vài loạt mới nhận ra ám hiệu của nhau, mừng vui trong chiến thắng, cùng truy kích tàn quân địch đang tháo chạy vào khu rừng gần đó.

615b3afe3ded83b3dafc-1739756923.jpg

Quả đồi trước cổng vào Quân cảng Ream - Một điểm cao được địch bố trí hỏa lực mạnh đã bị Trung đoàn 9, F304 đánh chiếm trong trận đánh ngày 9-1-1979, tạo thế giải phóng hoàn toàn Quân cảng.

Hơn 2 tiếng đồng hồ giao tranh, ta đã làm chủ trận địa. Mặt trận tạm im tiếng súng, chúng tôi nằm thưỡn ra bãi cỏ thưa, lấy gạo sấy chia nhau, vừa nhai vừa uống nước cho bụng đỡ cồn cào, ngước nhìn ánh chiều tà xám xịt đang dần buông sau mấy hàng dừa xanh xác xơ bởi đạn pháo, trong lòng các chàng trai cảm thấy nhẹ nhõm, phấn khích vì mình đã chiến đấu ngoan cường và đã đánh cho quân địch tan tác.

Ngày ngày, đơn vị tôi truy quét tàn quân địch đang lẩn trốn trong rừng, chiều xuống lại trở về điểm chốt trên một quả đồi nhìn ra bến cảng. Khi những tia nắng cuối cùng chỉ còn le lói rồi lịm tắt, hoàng hôn dần buông, lòng tôi lại quặn thắt nhớ về đất mẹ.

Nghe phân công trực gác xong, tôi mắc võng, lấy ra từ túi áo trang giấy nhỏ mang theo từ đầu chiến dịch đã úa màu mồ hôi, ngồi ghi mấy dòng nhật ký để nhớ và làm kỷ niệm về cuộc đời gian lao trên trận tuyến đánh quân thù.

0483223e3f2d8173d83c-1739756923.jpg

Những trang nhật ký tác giả viết tại quân cảng Ream, chiến trường K mùa Xuân năm 1979

“Ream, ngày 10-1-1979

Đêm chốt ở mé rừng. Ngày đi truy kích địch.”

“Ngày 11-1-79 và 12-1-1979

2 ngày đi truy quét tàn quân địch. Đêm lại về trên chốt tiền tiêu. Đã trung tuần tháng Chạp, đêm nào trăng cũng sáng như gương. Gần tết rồi còn gì? Chắc có lẽ Tết này tôi sẽ đón ở Kampuchia. Rồi sẽ xa tất cả vì nhiệm vụ quốc tế của người chiến sĩ. Chính lúc này, đôi lúc tôi có ít nhiều suy nghĩ về đất mẹ Việt Nam, về quê hương, về cậu mẹ tôi đang trông mong đứa con xa nhà đi chiến đấu…”.

“Ngày 16-1-1979.

Nói sao cho hết nỗi nhớ của người chiến sĩ làm nhiệm vụ nơi xa Tổ quốc mình. Đêm đêm, cứ đến phiên gác, tôi lại hình dung ra những ngày tháng còn tuổi học trò. Rừng núi về đêm giữ vẻ trầm ngâm, ánh trăng trung tuần chen qua các kẽ lá rọi vào hòn đá cạnh chỗ tôi ngồi trông trắng bạch, rồi dần dà vệt sáng cũng di chuyển theo bóng trăng thời gian về khuya...”.

Trở lại thăm chiến trường xưa sau 46 năm, tôi thầm cầu cho linh hồn các đồng đội đã hy sinh, nếu còn ẩn khuất, man mác đâu đây thì hãy siêu thoát mà trở về với đất mẹ! Các anh sống mãi cùng chúng tôi và lịch sử quân đội anh hùng.

(Còn tiếp kỳ 4: Tết Việt ở chiến trường K. 1979.)