Sau Đại thắng mùa xuân 1975, đất nước hòa bình, thống nhất, những tưởng chiến tranh đã vĩnh viễn lùi xa, chúng tôi đâu biết rằng, suốt từ 1975-1978 ở biên giới Tây Nam, lính Khmer Đỏ tàn bạo do Pol Pot – Ieng Sary cầm đầu ở Campuchia đã tiến hành cuộc chiến tranh xâm lược, giết hại hàng vạn đồng bào ta. Lớp thanh niên tuổi mười tám, đôi mươi chúng tôi phần lớn đang ngồi trên ghế nhà trường, chưa kịp bắt đầu với những ước mơ, hoài bão về một tương lai tươi sáng trong thời bình đã phải từ giã mái trường thân yêu, nối tiếp truyền thống cha anh đi giữ nước.
Quân trường gian lao
Ngày 11-11-1977, tôi và nhiều bạn bè đồng trang lứa lên đường nhập ngũ. Gia đình, bè bạn tiễn chúng tôi ra bến đò ven sông Thạch Hãn lên thuyền đến điểm tập kết. Bấy giờ, gió mùa Đông Bắc bắt đầu tràn về, mưa phùn lất phất. Dòng sông quê tôi vẫn êm đềm chảy trong làn sương trắng xóa, mờ ảo. Thấp thoáng xa xa, đôi bờ hiện ra bóng mấy rặng tre xanh, nghiêng mình vẫy theo từng cơn gió. Bến sông quê quen thuộc mỗi ngày là thế bổng chốc trầm tư chứng kiến cuộc chia ly. Tôi nhìn lên bờ, bóng cha tôi cao lớn, lặng lẽ đứng sừng sững giữa đám đông người đưa tiễn, ông buồn không nói nên lời. Còn mẹ tôi thì đang ngồi nhà và khóc. Con thuyền nổ máy, tròng trành lướt đi, tôi không thể ngờ rằng, gần một ngàn ngày sau mình mới may mắn được trở về.
Đoàn xe quân sự đưa chúng tôi về doanh trại của đại đội 9, tiểu đoàn 3, Trung đoàn 9 (thuộc Sư đoàn bộ binh 304, biệt danh Sư đoàn Vinh Quang, Quân đoàn 2) đóng quân tại xã Hòa Khương, huyện Hòa Vang, tỉnh Quảng Nam – Đà Nẳng (nay là thành phố Đà Nẳng). Đây là đơn vị anh hùng, ra đời trong thời kỳ chống Pháp, lập nhiều chiến công trên khắp các chiến trường, được mệnh danh là Sư đoàn “Quả đấm thép” của Quân đội Nhân dân Việt Nam.
Sau hơn 4 tháng huấn luyện tân binh trên thao trường nắng cháy, rét buốt, chúng tôi được điều chuyển về các đơn vị tiếp tục huấn luyện kỹ thuật, chiến thuật binh chủng, sức bền hành quân cơ động. Tôi được biên chế về đại đội 4 (D1) hỏa lực làm xạ thủ số 1 súng máy 12 ly 7. “Thao trường đổ mổ hôi, chiến trường bớt đổ máu”, hơn 9 tháng huấn luyện gian khổ nữa thử thách ý chí chúng tôi.
Nơi đóng quân và thao trường của đơn vị là vùng bán sơn địa miền tây Đà Nẳng, đất cằn khô xen lẫn những tảng đá xanh to nằm lỗn ngỗn, chỉ có cây bụi thấp và loài cây chà là gai là có thể sống được. Các bài huấn luyện vận động tấn công, bắn máy bay bay thấp, bắn chế áp bộ binh, hành quân đêm, đánh luồn sâu v.v... của khẩu đội tôi đều ở diễn ra trên thao trường ở mấy quả đồi bát úp quanh doanh trại. Những vết cào xước rớm máu bởi cây gai và cái nắng chói chang của mảnh đất miền Trung chẳng mấy chốc đã biến những chàng tân binh dáng thư sinh thành những anh lính chì rắn rỏi, nước da sạm màu mưa nắng. Đang tuổi ăn, tuổi ngũ, nhiều đêm đang say “như chết” trong giấc nồng thì còi báo động và mệnh lệnh hành quân vang lên, ai nấy giật bắn người, bật nhảy ra khỏi giường như chiếc lò xo bung, trong phút chốc lính ta quân phục chỉnh tề tập hợp đội hình. Những lần đầu chúng tôi chỉ tập hành quân vài cây số, mang vác nhẹ, sau tăng dần cả độ dài quãng đường và trọng lượng mang vác, đi xuyên đêm, có lúc phải chạy theo các tình huống giả định.
Rồi cũng quen dần với gian lao, nhưng có một thứ mà cánh lính trẻ rất khó quen đó là cái đói cứ cồn cào và nổi nhớ nhà da diết. Những năm sau 1975, kinh tế đất nước khó khăn, tuy tiêu chuẩn ăn của lính 18 đến 21kg lương thực một tháng nhưng phân nửa là độn sắn, bột mì, rồi hao hụt... Hai bữa chính mỗi bữa chỉ được lát mì luộc mỏng, lưng chén cơm với rau luộc và nước mắm “đại dương”, nhiều hôm đói cồn cào không sao ngủ được nằm mong cho trời mau sáng. Giải trí thì càng nghèo nàn, ngày đó làm gì có điện thoại, truyền hình, thư nhà thì cả tháng mới nhận được, có khi cả tiểu đội đọc chung. Có vài anh không chịu được nổi nhớ đã trốn về thăm vợ mấy hôm rồi quay lại đơn vị chịu hình thức kỷ luật. Ấy thế nhưng chỉ huy không đối xử “quân phiệt” với lính vì đó là hành vi cấm kỵ trong Điều lệnh quân đội. Còn lính ta thì rất đoàn kết, chưa bao giờ có ẩu đả xảy ra trong đơn vị. Có lẽ “10 lời thề danh dự” và “12 Điều kỷ luật” của Quân đội đã thấm vào máu của mỗi người lính. Cái chất “bộ đội Cụ Hồ” cũng bắt đầu hình thành từ đó.
Đường ra miền biên viễn
Bồi hồi đọc lại những trang nhật ký đã nhòe, tôi vẫn hình dung ra được ngày 17-12-1978. Đó là một chiều Chủ nhật mùa đông, trời mưa phùn và se se lạnh, thời gian có vẻ trôi chậm hơn với những người lính xa nhà, chúng tôi nhận lệnh chuẩn bị hành quân, chập tối thì lên đường, hôm sau lại quay về doanh trại – thì ra đó chỉ là một cuộc nghi binh. Suốt cả tuần sau, toàn đơn vị “cắm trại 100%” rồi bí mật xuất phát vào đêm khuya 24-12-1978. Là người lính, có lệnh là đi. Toàn trung đoàn lặng lẽ hành quân bộ khoảng 25 km xuyên đêm, men qua mấy quả đồi vắng xa khu dân cư rồi ra đường lộ, hướng về nơi có vầng sáng của ánh đèn đêm thành phố Đà Nẳng. Chúng tôi cắm cúi đi, giữ khoảng cách như những lần huấn luyện trước đây, đường xa nhưng những bước chân người chiến sĩ vẫn thấy nhẹ như không. Trời vừa tảng sáng thì người lính cuối cùng của đơn vị cũng đã vào trong khu vực sân bay Đà Nẵng.
Tiếng động cơ máy bay gầm rú đinh tai nhức óc, cất hạ cánh liên tục. Bộ đội nghỉ tạm tại chỗ, gối đầu lên ba lô tranh thủ chợp mắt chờ đến lượt bay. Mãi đến 13g35 mới máy bay mới cất cánh. Lần đầu đi máy bay, lính ta ai cũng háo hức tranh nhau nhìn làng quê, biển cả quê hương hiện ra dưới khung cửa sổ. Khi chiếc TU.134 hạ cánh, lăn bánh trên đường băng vào sân đỗ, chúng tôi mới biết mình đã đến phi trường Tân Sơn Nhất. Chúng tôi ăn bữa chiều với suất bo bo dai như cao su, nhai trẹo cả răng. Một hàng dài xe quân sự đang chờ sẳn. Cả đơn vị lên ô tô hành quân suốt đêm và cả ngày hôm sau, chỉ nghỉ ngơi vài chục phút để ăn trưa. Đoàn xe 2 lần qua phà, thi thoảng tôi đọc được địa danh trên các bảng hiệu còn sáng ánh đèn, biết mình đang qua địa phận tỉnh Cửu Long (Vĩnh Long ngày nay), qua thành phố Cần Thơ, thị xã Long Xuyên (An Giang) hướng ra miền biên giới.
Trên xe quân sự mui trần, tôi phóng tầm mắt ra những cánh đồng trải dài mênh mông bát ngát, bấy giờ, lúa đã độ chín vàng, có nơi đã gặt xong. Lần đầu tiên đến đồng bằng Nam bộ, lòng tôi nao nao cảm xúc khó tả như muốn reo lên: Ôi, đồng quê miền biên viễn sao mà đẹp đến thế! Chúng tôi không ngờ rằng, phía sau những cánh đồng, làng quê xinh đẹp kia, đồng bào ta phải chịu bao tang tóc, đau thương.
Đường mỗi lúc một khó đi, xe lắc mạnh, đôi lúc nhảy chồm lên. Đoàn xe đưa chúng tôi đến thị trấn Tri Tôn, cuối cùng đỗ quân ở xã Ba Chúc thuộc huyện Bảy Núi (cũ) tỉnh An Giang – nơi mà bọn lính Khmer Đỏ (chúng tôi gọi là Miên) vừa sát hại hơn 3.000 đồng bào ta. Cảnh tượng làng mạc tan hoang, nhà cửa đổ nát vì đạn pháo của giặc khứa mãi vào tâm can người lính. Nghe người dân nơi đây kể lại và mục sở thị chứng tích tội ác của chúng ở 2 ngôi chùa Phi Lai, Tam Bửu mà lòng chúng tôi uất nghẹn, sôi máu căm hờn, muốn cầm súng xung trận ngay lập tức để trừng trị quân giặc dã man.
Những ngày và đêm cuối năm 1978 ở miền biên giới, tiếng súng, tiếng đại bác vẫn không ngớt vọng về. Đêm 28-12-1978, bọn giặc còn hung hăng tràn sang lấn đất, đánh chiếm các chốt của du kích ta ở vùng kênh Vĩnh Tế (xã Ba Chúc), tiếng súng kéo rề rà đến chiều ở biên giới vẫn chưa dứt. Có lẽ, chúng chưa biết đại quân ta đã áp sát và ngày tận số của chúng đang đến gần kề.
Kỳ 2: Vào chiến dịch biên giới Tây Nam.
CCB Nguyễn Vân Hậu, sinh năm 1959 tại Quảng Trị. Sau khi xuất ngũ, ông kinh qua các vị trí công tác tại tỉnh Lâm Đồng: Chánh Văn phòng HĐND-UBND huyện Bảo Lộc, tỉnh Lâm Đồng (TP.Bảo Lộc); Ủy viên Thường trực HĐND TP Bảo Lộc; Phó trưởng Ban Tuyên giáo Thành ủy Bảo Lộc, Lâm Đồng. Dưới các bút danh: ThS.Nguyễn Vân Hậu; Nguyễn Vân Hậu; Vân Hậu; Vân Nguyên; Nguyên Bảo; Song Ngữ, ông là tác giả của hàng trăm bài viết trên Báo Đại biểu Nhân dân, Báo Người Lao động, Báo Lâm Đồng, Báo Sài Gòn Giải phóng, Trang Thông tin HĐND tỉnh Lâm Đồng, Trang Thông tin Nội bộ Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy Lâm Đồng… |