Chiến lược quốc gia về cấp nước sạch và vệ sinh nông thôn đến năm 2030, tầm nhìn đến 2045

Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu trong phát triển nông thôn, nhưng hơn 40% dân cư nông thôn vẫn chưa được sử dụng nước sạch đạt quy chuẩn. Phần lớn trong số này sinh sống ở miền núi, vùng sâu, vùng xa, nơi hệ thống cấp nước nhỏ lẻ, khó bảo trì, dễ xuống cấp và thiếu mô hình quản lý hiệu quả.

Theo thống kê của Bộ Nông nghiệp và Môi trường: “Hiện mới khoảng 58% người dân nông thôn được sử dụng nước đạt quy chuẩn quốc gia, trong đó chỉ 8% dùng nước từ công trình cấp nước tập trung. Muốn đạt 80% vào năm 2030, chúng ta cần thêm nhiều giải pháp mạnh mẽ, đặc biệt là thúc đẩy đầu tư xã hội hóa. Điều này cho thấy nước sạch vẫn còn là “nút thắt” lớn trong hạ tầng an sinh tại nông thôn – yếu tố cốt lõi để duy trì sức khỏe, giáo dục, sản xuất và sự ổn định xã hội.

dt1a511nuocsach-1760689333.jpg

Khoảng 58% người dân nông thôn được sử dụng nước đạt quy chuẩn quốc gia. (Ảnh minh họa. Nguồn: TTXVN)

 

Mục tiêu chiến lược: 100% người dân nông thôn có nước sạch vào năm 2030

Chiến lược quốc gia đặt ra mục tiêu đầy tham vọng: 100% người dân nông thôn được sử dụng nước sạch đạt quy chuẩn vào năm 2045, trong đó ít nhất 65% được cấp từ hệ thống tập trung. Đây không chỉ là một chỉ tiêu kỹ thuật, mà còn là cam kết về công bằng xã hội và bảo đảm quyền tiếp cận các dịch vụ cơ bản cho người dân vùng khó khăn.

Tuy nhiên, để hiện thực hóa mục tiêu này, Việt Nam đang đối mặt với ba thách thức lớn:

Thiếu vốn đầu tư nghiêm trọng: Giai đoạn 2020–2024, tổng vốn đầu tư chỉ đạt 13.400 tỷ đồng, trong khi nhu cầu thực tế giai đoạn 2021–2025 là 29.400 tỷ đồng – tức đang thiếu gần 16.000 tỷ đồng.

Biến đổi khí hậu và thiên tai cực đoan: Tình trạng hạn hán, xâm nhập mặn và lũ lụt ngày càng gia tăng khiến nhiều vùng – đặc biệt là Đồng bằng sông Cửu Long – rơi vào khủng hoảng nước sinh hoạt vào mùa khô.

Quản lý phân tán, thiếu liên kết vùng: Nhiều công trình cấp nước được xây dựng cục bộ theo từng xã, từng huyện, không có quy hoạch tổng thể liên vùng nên dễ bị tổn thương khi xảy ra thiên tai quy mô lớn.

Những bất cập và giải pháp từ thực tiễn: Không thể thiếu cộng đồng và công nghệ

Một vấn đề đáng lo ngại là hầu hết công trình cấp nước nhỏ lẻ chỉ hoạt động được 3–5 năm, sau đó xuống cấp nhanh chóng do thiếu vốn bảo trì, thiếu mô hình quản lý phù hợp. Nhiều địa phương không có cán bộ chuyên trách về nước sạch, dẫn đến tình trạng vận hành thủ công, không kiểm soát được chất lượng nước đầu ra.

Chất lượng nước sau xử lý cũng bị ảnh hưởng bởi đường ống cũ, bể chứa mất vệ sinh, thiếu giám sát định kỳ, gây nguy cơ lây nhiễm và ảnh hưởng sức khỏe người dân. Trong khi đó, thủ tục hành chính như cấp phép khai thác nước ngầm hay đầu tư công trình vẫn còn rườm rà, chậm trễ, chưa đáp ứng tính chất cấp thiết của một dịch vụ thiết yếu.

Một trong những điểm sáng đáng ghi nhận là sự tham gia tích cực của cộng đồng tại một số địa phương như Nghệ An, Quảng Trị – nơi người dân tự thành lập tổ quản lý, thu phí, kiểm tra chất lượng nước và duy trì công trình. Tỷ lệ công trình hoạt động bền vững tại các khu vực này cao gấp đôi so với nơi chỉ giao cho chính quyền quản lý.

Cùng với đó, ứng dụng công nghệ và chuyển đổi số đang mở ra hướng đi mới. Việc lắp đặt cảm biến giám sát độ đục, pH, clo dư… giúp cảnh báo sớm và xử lý sự cố kịp thời. Một số địa phương đã xây dựng “bản đồ rủi ro nước sạch” – công cụ quan trọng để theo dõi ô nhiễm và xâm nhập mặn theo thời gian thực.

Cần nhìn nước sạch là dịch vụ thiết yếu, không thể chờ

Nước sạch cần được xem là hạ tầng thiết yếu, tương đương với điện, y tế, giáo dục. Các chuyên gia đề nghị:

Sửa đổi quy trình hành chính, rút ngắn thủ tục cấp phép, đầu tư công trình.

Tăng cường xã hội hóa, thu hút doanh nghiệp tham gia vận hành, bảo trì, đầu tư.

Quy hoạch tổng thể liên vùng để chia sẻ nguồn nước và tối ưu chi phí đầu tư.

Đẩy mạnh chuyển đổi số và giám sát chất lượng nước theo thời gian thực.

Huy động cộng đồng địa phương tham gia quản lý, vận hành, tăng tính bền vững.

Chiến lược quốc gia về cấp nước sạch và vệ sinh nông thôn không đơn thuần là kế hoạch kỹ thuật – mà là cam kết nhân văn về quyền con người, về công bằng xã hội và phát triển bền vững. Mỗi giọt nước đến được với người dân vùng khó không chỉ mang lại sức khỏe, mà còn là chìa khóa mở cánh cửa cơ hội, giáo dục và thịnh vượng.

Để đạt được mục tiêu trước mắt đến năm 2030 và tầm nhìn đến năm 2945, Việt Nam cần sự đồng hành mạnh mẽ từ nhà nước, doanh nghiệp, cộng đồng và người dân – bởi như ông Lương Văn Anh, Phó Cục trưởng Cục Quản lý và Xây dựng công trình thủy lợi Bộ Nông nghiệp và Môi trường đã nêu rõ: “Nước sinh hoạt không thể xem là vấn đề phụ, mà là hạ tầng an sinh thiết yếu, không thể chờ.”

V.X.B