Chuyển đổi nền kinh từ kế hoạch hóa tập trung sang kinh tế thị trường đã giúp Việt Nam từ một trong những quốc gia nghèo nhất thế giới trở thành nước có thu nhập trung bình thấp và là một trong những quốc gia năng động nhất ở Đông Á –Thái Bình Dương (ĐA-TBD).
Với chức năng của mình, Nhóm Ngân hàng Thế giới (W.B) tại Việt Nam đã đề xuất một số lựa chọn chính sách, nhằm đưa nền kinh tế trở lại đúng quỹ đạo; thực hiện hiệu quả ngân sách đầu tư công để kích thích tổng cầu và tăng trưởng kinh tế; đa dạng hóa các sản phẩm và điểm đến xuất khẩu để xây dựng khả năng phục hồi trung hạn trước các cú sốc bên ngoài. Đồng thời nhấn mạnh, chính sách tài khóa đóng vai trò mạnh mẽ khuyến khích thực hành và tiêu dùng xanh, góp phần xây dựng môi trường bền vững. Bài viết đề cập đến một số khía cạnh phát triển kinh tế Việt Nam từ góc nhìn chuyên gia của W.B.
Nền kinh tế có gì thay đổi?
Theo công bố mới đây của W.B, trong nền kinh tế Việt Nam, sản xuất công nghiệp đã tăng 2,6% và doanh số bán lẻ tăng 7,6% trong tháng 8 năm 2023; hoạt động xuất khẩu tăng nhẹ từ tháng 5 đến tháng 8. Ngược với đà giảm dần của 6 tháng trước, lạm phát theo CPI đã từ 2,1% của tháng 7 tăng lên 3,0% trong tháng 8 và tín dụng đã từ 9% tăng lên 9,4%. Tuy nhiên, sự gia tăng này vẫn thấp hơn so với mức ghi nhận được trong những năm gần đây và còn nằm dưới mức trần quy định 14%.
Cùng với xu hướng của nền kinh tế, cân đối ngân sách đã thâm hụt 2,1 tỷ USD trong tháng 8, với lũy kế ước đạt 2,3 tỷ USD. Tính từ đầu năm đến cuối tháng 8/2023, thu ngân sách giảm 9,1%, trong khi chi tiêu công tăng 15,2% và giải ngân vốn đầu tư công cũng tăng 40,3%.
Sụt giảm xuất khẩu có thể do mức gia tăng đã chạm đáy và tiêu dùng trong nước giữ ổn định.Tăng trưởng tín dụng tiếp tục chậm lại,đã phản ánh đầu tư tư nhân trong nước và niềm tin của nhà đầu tư nước ngoài yếu đi. Những biến động tăng giá cả thế giới gần đây, đòi hỏi cần có sự giám sát chặt chẽ về lạm phát CPI.
Tiếp tục xu thế thắt chặt tài chính của kinh tế toàn cầu cho thấy, cần quản lý ngoại hối một cách linh hoạt để ứng phó với những thay đổi bên ngoài. Tăng tốc giải ngân đầu tư công có thể hỗ trợ tổng cầu và tăng trưởng kinh tế ngắn hạn; còn tập trung vào tăng cường hạ tầng xanh và đầu tư nguồn nhân lực sẽ giúp thúc đẩy phát triển kinh tế trong dài hạn.
Diễn biến kinh tế Việt Nam dưới góc nhìn Ngân hàng Thế giới
Việt Nam một trong những nền kinh tế tăng trưởng cao trên thế giới (ảnh: Báo Đầu tư)
Nghiên cứu thực trạng hoạt động gần đây của nền kinh tế, các nhà phân tích thuộc Ngân hàng Thế giới (W.B) cho rằng, nền công nghiệp được cải thiện nhẹ nhưng vẫn còn yếu; sản xuất công nghiệp tăng nhẹ ở mức 2,6% trong tháng 8, phù hợp với mức cải thiện khiêm tốn kể từ tháng 5 năm 2023. Sự cải thiện này nhờ sản xuất phục vụ tiêu dùng trong nước tiếp tục mở rộng, bao gồm cả thực phẩm, đồ uống cũng như xăng dầu, đã phản ánh sự gia tăng của nhu cầu nội địa. Sản xuất nội thất và hàng dệt may được cải thiện trong tháng 7 và tháng 8 so với một năm trước đó. Điều này phần nào đó cũng phản ánh kỳ vọng nhu cầu bên ngoài được cải thiện trước mùa Giáng sinh, theo hướng điều chỉnh tăng tăng trưởng ở Mỹ và Nhật Bản. Mặt khác, sản xuất mặt hàng xuất khẩu chủ lực như giày dép, sản phẩm da; hàng điện tử, máy tính và điện thoại di động gia tăng;tuy nhiên, phương tiện cơ giới và thiết bị vận tải lại tiếp tục suy giảm trong tháng 8 so với cùng kỳ năm trước.
Sau 5 tháng liên tiếp (từ tháng 3 đến tháng 7) nằm trong vùng suy giảm dưới 50; chỉ số sản xuất công nghiệp(PMI) đã tăng lên 50,5 vào tháng 8 năm 2023, cho thấy có sự cải thiện nhẹ trong điều kiện kinh doanh khó khăn.
So cùng kỳ năm trước, doanh số bán lẻ được cải thiện, nhưng vẫn thấp hơn nhiều so với trước đại dịch. Doanh số bán lẻ tăng 7,6% trong tháng 8, và được cải thiện so với mức tăng 5,1% vào tháng 7 năm 2023. Nhưng con số này vẫn thấp hơn nhiều so với trước Covid-19 (từ11 đến 12%).
Chiếm gần 80% tổng doanh số bán lẻ, tốc độ tăng trưởng bán lẻ hàng hóa đã được cải thiện với mức gia tăng doanh số từ 7,0% trong tháng 7 lên 7,5% vào tháng 8. Doanh thu dịch vụ tiếp tục tăng 11,4% trong tháng 8, phần lớn sự gia tăng này nhờ vào mở rộng dịch vụ du lịch (tăng 21,5%), dịch vụ lưu trú và nhà hàng (tăng10,8%). Việt Nam đã đón 1,2 triệu du khách quốc tế, tăng 17% so với tháng 7, đã phản ánh thực trạng cao điểm của mùa du lịch trong năm. Lượng khách quốc tế trong 8 tháng đầu năm đạt 7,8 triệu lượt người, tăng 4,4% so với năm 2022 nhưng vẫn thấp hơn 30% so với mức trước đại dịch Covid-19.
Thương mại hàng hóa quốc tế tiếp tục giảm, nhưng có dấu hiệu cải thiện; Xuất nhập khẩu hàng hóa nằm trong vùng suy thoái vào tháng 8 năm 2023, lần lượt giảm 7,3% và 8,1% so với cùng kỳ. Xuất khẩu giảm là do các sản phẩm sản xuất chính bao gồm điện thoại thông minh giảm (-14,6%), máy móc (-17,9%), dệt may (-17,8%) và giày dép (-19,3%). Thực trạng này cũng được phản ánh qua sự sụt giảm nhập khẩu các mặt hàng đầu vào trung gian (chiếm khoảng 94% tổng lượng nhập khẩu) như dệt may giảm (-17,2%), thiết bị điện (-16,9% ), điện thoại thông minh (-55,3% ) và máy móc (-11,8%,) so với cùng kỳ.
Suy giảm thương mại hàng hóa đã phản ánh nhu cầu tiếp tục yếu đi từ các thị trường chính, bao gồm cả Mỹ và EU, khiến xuất khẩu vào 2 thị trương này lần lượt giảm 19,1% và 8,3% trong 8 tháng đầu năm 2023.
Xu hướng xuất, nhập khẩu tổng thể cho thấy, sự cải thiện kể từ tháng 5 năm 2023 với sự thu hẹp dần mức tăng trưởng âm của cả xuất khẩu và nhập khẩu. Xu hướng này theo W.B đã thể hiện, dường như sự sụt giảm xuất khẩu có thể đã chạm đáy.
Hoạt động FDI vẫn ổn định trong bối cảnh bất ổn toàn cầu. Cam kết FDI đạt 1,9 tỷ USD vào tháng 8 năm 2023, giảm 32% so với tháng 7. Tuy nhiên, cam kết FDI lũy kế 8 tháng đầu năm 2023 đã lên tới 18,1 tỷ USD, cao hơn 8,2% so với cùng kỳ năm trước. Giải ngân vốn FDI đạt 1,5 tỷ USD trong tháng 8 năm 2023, tăng 23,6% so với cùng kỳ năm 2022. Giải ngân FDI lũy kế đến tháng 8/2023 đạt 13,1 tỷ USD, tương đương cùng kỳ năm 2022. Mặc dù có những bất ổn toàn cầu, song cam kết và giải ngân FDI ở Viêt Nam vẫn giữ ổn định, đã phản ánh sự quan tâm của các nhà đầu tư nước ngoài đối với các cơ hội kinh doanh ở Việt Nam
Lạm phát chung cả nước gia tăng trong khi mức lạm phát lõi tiếp tục giảm nhẹ. Ngược với xu hướng giảm trong 6 tháng trước đó, tính theo chỉ số giá tiêu dùng (CPI), mức lạm phát đã tăng từ 2,1% của tháng 7 lên 3,0% vào tháng 8 năm 2023. Lương thực, thực phẩm cũng như giá nhà ở và vật liệu xây dựng gia tăng được cho là những tác nhân chính gây lạm phát CPI
Tăng trưởng tín dụng tăng nhẹ với mức tăng từ 9,0% trong tháng 7 lên 9,4% vào tháng 8 năm 2023, là mức tăng thấp hơn nhiều so với mức đã ghi nhận trong giai đoạn trước đại dịch và vẫn dưới mức trần tín dụng định hướng hàng năm do Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đặt ra là 14%. Tăng trưởng tín dụng thấp và thanh khoản thị trường dồi dào, đã phản ánh đầu tư khu vực tư nhân (bao gồm cả lĩnh vực bất động sản và niềm tin của nhà đầu tư) tiếp tục yếu đi.
Thủ tướng Phạm Minh Chính tiếp bà Phó Chủ tịch WB Victoria Kwakwa - Ảnh VGP/Nhật Bắc
Về những cân đối lớn trong phat triển kinh tế-xã hội. So cùng kỳ năm trước, Ngân sách Chính phủ tiếp tục bị thâm hụt. Cân đối Ngân sách tháng 8 thâm hụt khoảng 2,1 tỷ USD với lũy kế ước tính khoảng 2,3 tỷ USD.
Do kinh tế tăng trưởng chậm lại, số thu ngân sách đã giảm 23,2% (so với cùng kỳ) vào tháng 8 năm 2023, Trong khi chi tiêu công tiếp tục gia tăng, (tăng 22,1% tháng 8). Tính đến cuối tháng 8, thu ngân sách lũy kế đạt 44,5 tỷ USD (khoảng 70% dự toán ngân sách) giảm 9,1% so với cùng kỳ năm 2022. Lũy kế thực hiện ngân sách lên tới 46,8 tỷ USD, tăng 15,2% so với cùng kỳ năm 2022 và lũy kế giải ngân đầu tư công 8 tháng đầu năm tăng 40,3% so với cùng kỳ năm trước.
Cuối tháng 8/2023 Kho bạc Nhà nước đã phát hành khoảng 230,5 nghìn tỷ đồng trái phiếu Chính phủ, tương đương 57,6% tổng vốn vay dự kiến của năm 2023. Khoảng 83% lượng trái phiếu phát hành có kỳ hạn 10 năm và 15 năm, với lãi suất danh nghĩa lần lượt là 2,36% và 2,59%.
Vấn đề cần được tiếp tục theo dõi từ góc nhìn nghiên cứu:
Theo các chuyên gia kinh tế, trong sụt giảm chung, hoạt động xuất khẩu có thể chạm đáy, tiêu dùng trong nước ổn định, tăng trưởng tín dụng tiếp tục chậm lại đã, phản ánh đầu tư tư nhân trong nước và niềm tin của nhà đầu tư bị suy giảm.
Những biến động của tăng giá năng lượng,lương thực thực phẩm toàn cầu, đòi hỏi phải có sự giám sát chặt chẽ mức độ lạm phát CPI. Điều này có thể ngăn cản NHNN nới lỏng hơn nữa chính sách tiền tệ.
Tiếp tục duy trì trạng thái thắt chặt tài chính toàn cầu cho thấy, cần đảm bảo việc quản lý ngoại hối linh hoạt để ứng phó với các điều kiện biến động từ bên ngoài.
Các nhà phân tích cho rằng, việc tăng tốc giải ngân đầu tư công có thể hỗ trợ tổng cầu và tăng trưởng kinh tế trong ngắn hạn. Nhưng nếu đồng thời tập trung đầu tư vào cơ sở hạ tầng xanh, các lĩnh vực có khả năng phục hồi và nguồn nhân lực sẽ giúp thúc đẩy phát triển kinh tế dài hạn.tốt hơn.
Thay lời Kết luận
W.B nhận xét, Việt Nam là một câu chuyện phát triển thành công. Những cải cách kinh tế từ năm 1986 kết hợp với xu hướng toàn cầu thuận lợi đã nhanh chóng giúp Việt Nam phát triển từ một trong những quốc gia nghèo nhất trên thế giới trở thành nước thu nhập trung bình thấp chỉ trong vòng một thế hệ. Từ năm 2002 đến 2020, GDP đầu người đã tăng 3,6 lần, đạt gần 3.700 USD. Tỉ lệ nghèo (theo chuẩn 3,65 USD/ngày) giảm từ hơn 14%( 2010) xuống dưới 3,8% vào năm 2020.
Những đánh giá, nhận xét và đề xuất của W.B là những tiêng nói khách quan đáng ghi nhận. Hy vọng các nhà hoach định chính sách nước nhà nhà sẽ coi đây là những tư liệu tham kháo bổ ích trong cây dựng và phát triển nền kinh tế xanh, báo trùm và bền vững hơn./.