Kỷ niệm 80 năm CMT8 và QK 2/9: Từ Tuyên ngôn Độc lập - Áng văn bất hủ - đến vị thế Việt Nam hôm nay

Cách đây tròn 80 năm, vào ngày 2/9/1945, tại Quảng trường Ba Đình lịch sử, Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt quốc dân đồng bào trịnh trọng đọc Tuyên ngôn Độc lập, khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa – Nhà nước công nông đầu tiên ở Đông Nam châu Á. Giây phút ấy đã trở thành mốc son chói lọi trong lịch sử dân tộc, mở ra kỷ nguyên độc lập, tự do, đồng thời góp phần làm thay đổi diện mạo chính trị thế giới sau Chiến tranh thế giới thứ hai.

dt1a-2-90548233269486328694663-1756741539.webp

Tranh cổ động kỷ niệm 80 năm Cách mạng Tháng 8 và Quốc khánh 2/9. Nguồn: Internet.

 

Từ áng văn bất hủ đến hiện thực phát triển

Bản Tuyên ngôn Độc lập chỉ vỏn vẹn 49 câu, 1.010 chữ, nhưng là kết tinh trí tuệ, khát vọng và ý chí quật cường của dân tộc Việt Nam. Đây không chỉ là văn kiện lập quốc có giá trị pháp lý, chính trị đặc biệt, mà thực sự là một áng văn bất hủ trong di sản văn hóa và tư tưởng Việt Nam để khẳng định quyền con người, quyền dân tộc bất khả xâm phạm. Nó có thể sánh với những áng “thiên cổ hùng văn” mà ông cha ta đã để lại trong sự nghiệp dựng nước và giữ nước của cả ngàn năm tồn tại trong mối quan hệ với phương Bắc như áng thơ thần “Nam quốc sơn hà” bên sông Như Nguyệt gắn với cuộc kháng chiến chống quân Tống của Lý Thường Kiệt, như Hịch tướng sĩ của Trần Hưng Đạo thống lĩnh toàn dân ba lần đánh bại giặc Nguyên - Mông, hay Đại cáo Bình Ngô của Nguyễn Trãi tuyên cáo về chiến thắng vẻ vang của cuộc kháng chiến trường kỳ đánh đuổi giặc Minh đô hộ dưới ngọn cờ của minh quân Lê Lợi... Từ những dòng trích dẫn Tuyên ngôn Độc lập của Mỹ năm 1776, Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của Pháp năm 1791, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã phát triển thành một chân lý phổ quát: “Tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do”. Đó là lời tuyên bố đanh thép, vừa dựa trên giá trị tiến bộ chung của nhân loại, vừa mang tầm khái quát sâu sắc về quyền dân tộc tự quyết.

Tuyên ngôn Độc lập không chỉ khẳng định thành quả cách mạng Tháng Tám, mà còn thể hiện thiên tài chính trị và tầm vóc văn hóa của Hồ Chí Minh. Người đã biến khát vọng ngàn đời của dân tộc thành lời thề thiêng liêng: “Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do và độc lập ấy”. Lời thề ấy, qua 80 năm, vẫn vang vọng trong từng bước đi của đất nước.

Tám thập niên đã trôi qua, dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân ta đã kế thừa và hiện thực hóa tinh thần của Tuyên ngôn Độc lập. Từ những năm tháng kháng chiến gian khổ bảo vệ chủ quyền, đến công cuộc thống nhất đất nước năm 1975, rồi bước vào sự nghiệp đổi mới từ năm 1986, Việt Nam đã khẳng định được vị thế ngày càng cao trong khu vực và trên trường quốc tế.

Nếu năm 1989, GDP bình quân đầu người mới chỉ khoảng 95 USD, thì đến năm 2024, con số này ước đạt 4.700 USD – gấp gần 50 lần. Từ một nước nghèo, Việt Nam đã vươn lên nhóm nước có thu nhập trung bình, được thế giới đánh giá là hình mẫu thành công về giảm nghèo, phát triển bao trùm và hội nhập quốc tế. Đất nước ta đã trở thành đối tác tin cậy, thành viên tích cực và có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế.

Quan trọng hơn, tinh thần nhân văn của Tuyên ngôn Độc lập tiếp tục được khẳng định trong tiến trình xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Các bản Hiến pháp qua từng thời kỳ đều thể hiện rõ mục tiêu: bảo đảm quyền con người, quyền công dân, gắn độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội, gắn phát triển kinh tế với công bằng, dân chủ và văn minh.

Vị thế Việt Nam hôm nay – tiếp nối lời thề lịch sử

Bước vào thế kỷ XXI, Việt Nam không chỉ giữ vững độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, mà còn chủ động hội nhập sâu rộng vào kinh tế thế giới, giữ vững môi trường hòa bình để phát triển. Lời thề của Chủ tịch Hồ Chí Minh năm 1945 nay đã được hiện thực hóa thành đường lối phát triển: kiên trì mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân, đẩy mạnh công cuộc đổi mới toàn diện và bền vững.

Trong bối cảnh cạnh tranh toàn cầu gay gắt, những biến động địa chính trị, an ninh phi truyền thống, tinh thần Tuyên ngôn Độc lập càng thôi thúc chúng ta vững vàng bản lĩnh, chủ động thích ứng, đồng thời kiên định bảo vệ lợi ích quốc gia – dân tộc. Từ một nước bị bao vây, cô lập, đến nay Việt Nam đã có quan hệ ngoại giao với 194 nước, thiết lập được mạng lưới 37 nước có quan hệ đối tác toàn diện trở lên, trong đó có đầy đủ 5 nước Ủy viên Thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc, tất cả các nước ASEAN, toàn bộ các thành viên G7, 18/20 nền kinh tế G20, là thành viên tích cực của hơn 70 tổ chức quốc tế. Việc nâng tầm, nâng cấp quan hệ với các đối tác chủ chốt, quan trọng đã góp phần tạo nên tầm vóc chiến lược mới, đưa hợp tác với các đối tác đi vào chiều sâu, tạo nền tảng cho sự phát triển quan hệ lâu dài và bền vững, mở ra cục diện đối ngoại thuận lợi hơn bao giờ hết cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đó cũng là động lực để Việt Nam nâng cao vị thế, đóng góp vào hòa bình, hợp tác và phát triển của nhân loại.

Tuyên ngôn Độc lập ngày 2/9/1945 mãi là lời thề thiêng liêng, bản anh hùng ca bất tử của dân tộc Việt Nam. Từ áng văn bất hủ ấy, đất nước đã vượt qua bao gian nan, đạt nhiều thành tựu rực rỡ, khẳng định vị thế mới trên trường quốc tế. Kỷ niệm 80 năm ngày Quốc khánh, chúng ta càng thêm tự hào, càng ý thức rõ hơn trách nhiệm giữ vững độc lập, tự do, bảo vệ vững chắc chủ quyền, đồng thời không ngừng nỗ lực xây dựng đất nước phồn vinh, hạnh phúc.

Đúng như tinh thần của bản Tuyên ngôn bất hủ, dân tộc Việt Nam hôm nay đang bước những bước đi mạnh mẽ, tự tin bước vào kỷ nguyên mới, sánh vai cùng bè bạn năm châu, hướng tới tương lai rạng rỡ.

V.X.B