Sinh viên tài năng Đại học Bách khoa - nguồn nhân lực chất lượng cao tương lai. Ảnh: Internet.
Nhu cầu cấp thiết
Trong tiến trình phát triển đất nước, con người luôn được đặt ở vị trí trung tâm và là động lực quan trọng nhất. Đặc biệt, trong bối cảnh cách mạng công nghiệp lần thứ tư, chuyển đổi số, hội nhập sâu rộng và cạnh tranh quốc tế ngày càng gay gắt, nguồn nhân lực chất lượng cao không chỉ là “chìa khóa” để nâng cao năng suất lao động, sức cạnh tranh quốc gia, mà còn là yếu tố quyết định để Việt Nam vươn lên mạnh mẽ.
Mới đây, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã ban hành Nghị quyết giám sát chuyên đề về việc thực hiện chính sách, pháp luật phát triển và sử dụng nguồn nhân lực, trong đó nhấn mạnh yêu cầu cấp thiết về nguồn nhân lực chất lượng cao, coi đây là một trong những khâu đột phá để đất nước phát triển nhanh và bền vững.
Giai đoạn 2021-2024, nhiều chủ trương, chính sách lớn của Đảng, Nhà nước đã được ban hành, trong đó phát triển nhân lực chất lượng cao được xác định là nhiệm vụ trọng tâm. Một số kết quả nổi bật có thể kể đến:
Chính sách thu hút, trọng dụng, đãi ngộ nhân tài bước đầu phát huy tác dụng. Nhiều sinh viên xuất sắc, cán bộ khoa học trẻ được tuyển dụng, đào tạo sau đại học trong và ngoài nước.
Một bộ phận nhân lực có trình độ tiệm cận quốc tế, đóng góp tích cực cho nghiên cứu, đổi mới sáng tạo, ứng dụng khoa học – công nghệ và hội nhập quốc tế.
Một số địa phương, đơn vị tiên phong thực hiện thi tuyển lãnh đạo, quản lý; thí điểm trả lương cao cho giảng viên, bác sĩ giỏi; xây dựng cơ chế nội bộ linh hoạt để giữ chân nhân tài.
Những kết quả này tạo tiền đề quan trọng, khẳng định quyết tâm của Nhà nước trong việc coi trọng và đầu tư cho nguồn nhân lực, đặc biệt là nhân lực chất lượng cao.
Hạn chế và thách thức
Bên cạnh kết quả đạt được, Nghị quyết cũng chỉ rõ nhiều tồn tại, hạn chế:
Thiếu một chiến lược tổng thể, dài hạn về phát triển nguồn nhân lực ở tầm quốc gia và cấp địa phương.
Cơ cấu ngành nghề đào tạo chưa thật sự gắn kết với nhu cầu thực tiễn, thiếu nhân lực chuyên sâu trong các lĩnh vực công nghệ cao, công nghệ lõi, trí tuệ nhân tạo, bán dẫn, công nghiệp quốc phòng…
Chất lượng nguồn nhân lực cải thiện chậm, chưa có bước đột phá; thể lực, tầm vóc người dân còn hạn chế, trong khi Việt Nam đang bước vào giai đoạn già hóa dân số nhanh.
Việc đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên chức chưa gắn với yêu cầu vị trí việc làm, còn hình thức; chương trình đào tạo trong và ngoài nước chưa đạt hiệu quả cao.
Khu vực ngoài công lập chưa phát huy hết tiềm năng, thiếu cơ chế khuyến khích đầu tư xã hội hóa vào phát triển kỹ năng nghề nghiệp và nâng cao trình độ chuyên môn.
Nếu không có những giải pháp quyết liệt và hiệu quả, nguy cơ thiếu hụt nhân lực chất lượng cao, đặc biệt là các chuyên gia đầu ngành, “tổng công trình sư”, nhóm nghiên cứu mạnh, sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến sức cạnh tranh và khả năng phát triển của đất nước.
Giải pháp đến năm 2030 - Tạo đột phá từ thể chế và hành động
Nghị quyết của Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã đưa ra những giải pháp quan trọng:
Hoàn thiện thể chế, chính sách: Khẩn trương ban hành Chiến lược phát triển nguồn nhân lực đến năm 2030, tầm nhìn 2050; sửa đổi, bổ sung Luật Giáo dục, Luật Giáo dục đại học, Luật Giáo dục nghề nghiệp, Luật Viên chức… nhằm tạo khung pháp lý đồng bộ, phù hợp.
Đổi mới công tác dự báo và đào tạo: Xây dựng cơ sở dữ liệu quốc gia về lao động, gắn kết với hệ thống dữ liệu dân cư; phát triển hệ thống thông tin thị trường lao động hiện đại; đẩy mạnh hướng nghiệp, phân luồng từ phổ thông; đổi mới chương trình đào tạo gắn với nhu cầu thực tiễn và yêu cầu chuyển đổi số.
Thu hút, trọng dụng nhân tài: Xây dựng cơ chế đặc thù, môi trường làm việc hấp dẫn để giữ chân nhân lực chất lượng cao; thực hiện trả lương theo năng lực, sản phẩm đầu ra; tăng cường đào tạo, bồi dưỡng chuyên gia, nhân lực trong các ngành mũi nhọn.
Huy động nguồn lực xã hội: Khuyến khích đầu tư của khu vực tư nhân, vốn nước ngoài vào đào tạo nghề, phát triển nhân lực công nghệ cao, nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp và quốc gia.
Phát triển và sử dụng hiệu quả nguồn nhân lực, nhất là nhân lực chất lượng cao, phải được coi là khâu đột phá chiến lược, ngang tầm với đổi mới thể chế và phát triển hạ tầng. Không chỉ đơn thuần là giải quyết vấn đề nhân lực cho trước mắt, mà còn là chuẩn bị cho tương lai, để Việt Nam có thể nắm bắt cơ hội từ chuyển đổi số, trí tuệ nhân tạo, kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn, và hội nhập quốc tế sâu rộng.
Trong kỷ nguyên cạnh tranh bằng tri thức và sáng tạo, quốc gia nào biết đầu tư bài bản, trọng dụng nhân tài, nuôi dưỡng và phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, quốc gia đó sẽ bứt phá. Đối với Việt Nam, đây không chỉ là yêu cầu phát triển, mà còn là lựa chọn mang tính sống còn để thực hiện khát vọng trở thành nước phát triển, thu nhập cao vào giữa thế kỷ XXI.
V.X.B