Doanh nghiệp khởi nghiệp sử dụng công nghệ để tạo ra sản phẩm, dịch vụ hoặc cung cấp dịch vụ theo cách mới có thể thành công và đóng góp quan trọng cho phát triển kinh tế, song những tổ chức này cần tiếp cận được nguồn vốn hỗ trợ từ các nhà đầu tư mạo hiểm và lao động lành nghề. Với tầm quan trọng ngày càng gia tăng, điều cần là phải hiểu rõ hơn về hệ sinh thái mà các công ty khởi nghiệp công nghệ cần phát triển.
Mô hình kinh doanh mới trong nông nghiệp
Theo ADB, mục tiêu của Chính phủ Việt Nam là thu hút tri thức, tổ chức và doanh nhân để phát triển kinh tế và tạo lập các công ty khởi nghiệp. Trong báo cáo với tựa đề “Hệ sinh thái khởi nghiệp công nghệ của Việt Nam”,tổ chức này đã phân tích tình hình khởi nghiệp với trọng tâm là ngành nông nghiệp. Theo đó, các chuyên gia đã nghiên cứu thách thức tạo lập hệ sinh thái để mở rộng quy mô khởi nghiệp,đồng thời đưa ra nhận xét và khuyến nghị để vượt qua thách thức trong tiến trình này.
Báo cáo của ADB nhận định, doanh nghiệp khởi nghiệp dựa trên công nghệ đã trở thành cấu phần quan trọng trong kinh doanh ở Châu Á - Thái Bình Dương. Bằng vận dụng công nghệ tiên tiến để tạo ra sản phẩm và dịch vụ mới, các tổ chức khởi nghiệp đã đóng góp đáng kể vào phát triển kinh tế đồng thời tạo ra các lợi ích xã hội và môi trường. Tuy nhiên, để tồn tại và phát triển, khởi nghiệp công nghệ đòi hỏi phải có hệ sinh thái thuận lợị, bao gồm cả chính sách hỗ trợ của chính phủ, khả năng tiếp cận đầy đủ với nguồn vốn, nhân sự có kỹ năng và hạ tầng kỹ thuật đảm bảo chất lượng cao.
Thực trạng khởi nghiệp công nghệ tại Việt Nam được nhìn nhận qua hệ sinh thái thông qua hệ thống hỗ trợ các công ty khởi nghiệp. Báo cáo đánh giá của ADB đã tập trung vào hai lĩnh vực nông nghiệp và và y tế, trong khi khi fintech và thương mại điện tử lại đang thịnh hành. Điều này được lý giải bởi các công ty khởi nghiệp trong 2 lĩnh vực này không chỉ là những doanh nghiệp thành công mà còn có tác động mạnh mẽ đến sự phát triển kinh tế, hỗ trợ hình thành vốn con người và tác động đến khu vực nông thôn còn nghèo. Theo đó, các nhà nghiên cứu đã đưa ra những khuyến nghị về cách thức mà Chính phủ và các bên liên quan có thể củng cố hệ sinh thái để tạo điều kiện cho các công ty khởi nghiệp công nghệ phát triển mạnh mẽ tại Việt Nam.
Tổng quan về sinh thái công nghệ và hệ sinh thái công nghệ tạiViêt Nam
Thuật ngữ “khởi nghiệp” không định nghĩa một loại hình kinh doanh cụ thể, mà xác định một giai đoạn của sự phát triển. Công ty khởi nghiệp là một tập hợp nguồn lực,bao gồm cả con người, tiền của và thời gian được kết hợp thành một mô hình kinh doanh để nhanh chóng xây dựng với quy mô lớn và nhân rộng trên các thị trường. Dấu hiệu nổi bật của công ty khởi nghiệp là sự sáng tạo, điều này giúp phân biệt nó với một doanh nghiệp. Công ty khởi nghiệp bắt đầu từ một ý tưởng hoặc bước đột phá gắn với công nghệ mới đồng thời liên kết với khả năng thương mại hóa và mở rộng thị trường. Nói cách khác, công ty khởi nghiệp cần đưa được ý tưởng mới vào thực tế để thu hút khách hàng và nhanh chóng phát triển.
Sự sáng tạo giúp công ty khởi nghiệp tạo ra giá trị và hình thành mô hình mới cho nền kinh tế. Mặc dù có tiềm năng đóng góp vào phát triển,song công ty khởi nghiệp lại phải đối mặt với những trở ngại của tăng trưởng, đó là thiếu vốn liên kết phát triển. Ngoài ra, còn gặp những rủi ro liên quan đến tính mới và sự nỗ lực sáng tạo. Biến một ý tưởng thành thương mại thực tế đòi hỏi trí tuệ và sự nỗ lực rất cao; trong bối cảnh này, các công ty khởi nghiệp không thể tự phát triển mà cần có một hệ sinh thái hỗ trợ .
Khái niệm về sinh thái khởi nghiệp lần đầu được nêu ra vào cuối những năm 1950 ở Hoa Kỳ (USA) tại Thung lũng Santa Clara (tiền thân của Thung lũng Silicon), Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế (OECD)xác định; hệ sinh thái khởi nghiệp là “Sự kết hợp liên kết chính thức và không chính thức giữa các tổ chức khởi nghiệp, doanh nghiệp, trường đại học, cơ quan nhà nước, quỹ đầu tư công và các yếu tố liên quan có tác động trực tiếp đến địa phương trong môi trường khởi nghiệp ”(OECD 2015). Ở cấp quốc gia, một hệ sinh thái khởi nghiệp có thể được mô tả như một thành phố,quốc gia hoặc vùng lãnh thổ hỗ trợ một tập hợp pháp nhân, bao gồm các công ty,nhà đầu tư mạo hiểm, đầu tư thiên thần, ngân hàng, trường đại học, cơ quan chính phủ và tổ chức tài chính kết nối với nhau để thúc đẩy phát triển dựa trên công nghệ và tinh thần kinh doanh.Theo Diễn đàn Kinh tế Thế giới (WEF), một hệ sinh thái khởi nghiệp bao gồm chín thành phần cơ bản, đó là: (i) các chính sách của chính phủ; (ii) khung pháp lý và cơ sở hạ tầng; (iii) vốn và nguồn tài chính; (iv) văn hóa; (v) chuyên gia tư vấn, cố vấn và hệ thống hỗ trợ; (vi) các trường đại học đóng vai trò như chất xúc tác; (vii) giáo dục và Đào tạo; (viii) nguồn nhân lực; và (ix) thị trường trong nước và quốc tế.
Việt Nam là quốc gia có dân số 97,3 triệu người, 70% trong số này có Internet và 98% dùng điện thoại thông minh. Với những số liệu này, Việt Nam được coi là một thị trường công nghệ rộng lớn. Tuy nhiên, khái niệm khởi nghiệp vẫn còn mới mẻ, chỉ xuất hiện cách nay khoảng 15 năm. Vào năm 2016, các thành phần của hệ sinh thái khởi nghiệp công nghệ lần đầu hiện hữu .
Chính phủ Việt Nam xác định khởi nghiệp là “một quá trình bắt đầu dựa trên việc tạo ra hoặc ứng dụng công nghệ và giải pháp quản lý mới để nâng cao năng suất và chất lượng ” (Luật Doanh nghiệp vừa và nhỏ năm 2017). Bộ Khoa học và Công nghệ (MOST) coi công ty khởi nghiệp là “một doanh nghiệp sáng tạo được thành lập để thực hiện ý tưởng kinh doanh dựa trên khai thác tài sản trí tuệ, công nghệ mới hoặc mô hình kinh doanh có tiềm năng mở rộng quy mô nhanh chóng ”. Dự án 844 quy định, việc hỗ trợ doanh nghiệp khởi nghiệp có thời gian hoạt động không quá 5 năm kể từ ngày được cấp đăng ký kinh doanh lần đầu, đồng thời hỗ trợ cho các công ty khởi nghiệp theo Luật Doanh nghiệp với Quy mô nhỏ và vừa không bị giới hạn. Nhiều nhận xét cho rằng Việt Nam có thái độ tích cực đối với hoat động khởi nghiệp.
Thống kê của Bộ KH&CN năm 2018 ghi nhận, cả nước có 600.000 công ty trong nước, bao gồm 3.000 công ty đổi mới (chiếm 0,5%). Năm 2021 ước tính cả nước có 3.800 công ty khởi nghiệp.Theo Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI),số lượng doanh nghiệp khởi nghiệp bình quân đầu người ở Việt Nam cao hơn các quốc gia như Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, Ấn Độ và Indonesia
Theo các nhà nghiên cứu,Cộng đồng khởi nghiệp Việt Nam đã đạt thành công với thế hệ đầu tiên là những công ty được thành lập vào đầu những năm 2000; các công ty khởi nghiệp đổi mới sáng tạo thế hệ thứ hai được thành lập vào khoảng năm 2010; trong những năm 2016–2022, các công ty thế hệ thứ ba đã xuất hiện trong các lĩnh vực giáo dục công nghệ, nông nghiệp, dịch vụ y tế, công nghệ tài chính và thương mại điện tử.
Chuyên gia kinh tế Aimee Hampel-Milagrosa của ADB, một trong những tác giả chính của báo cáo Hệ sinh thái khởi nghiệp công nghệ của Việt Nam, nhận xét “Chính phủ Việt Nam đã nhận ra rằng các công ty khởi nghiệp trong lĩnh vực công nghệ là động lực mới của tăng trưởng quốc gia. Để tạo thuận lợi cho quá trình này, chính phủ đã bắt đầu tập hợp những yếu tố chủ chốt, ví như các ưu đãi khuyến khích về chính sách và tài chính, để tạo ra và xây dựng những thế hệ kỳ lân khởi nghiệp tiếp theo của Việt Nam.” Bà cho biết, trong năm 2021, 5 lĩnh vực khởi nghiệp hàng đầu thu hút được nguồn vốn lớn nhất là công nghệ tài chính( Fintech chiếm 26,6%); thương mại điện tử (20,3%); công nghệ giáo dục(Edtech 17,2%); công nghệ y tế ( Healthtech 7,8%); và phần mềm dịch vụ (6,3%).
Hệ sinh thái công nghệ nông nghiệp nét riêng đối với Việt Nam
Mô hình nông nghiệp công nghệ cao ảnh VOV
Trong khó khăn của đại dịch Covid -19, ngành Nông nghiệp Việt Nam đã trở thành chỗ dựa quan trọng của nền kinh tế với sàn xuất liên tục tăng trưởng dương và có thặng dư xuất khảu.Từ năm 2018, giá trị xuất khẩu nông đạt trên 40 tỷ USD.Năm 2022, kim ngạch xuất khẩu nông nghiệp ước đạt 48,6 tỷ USD, tăng gần 15% so với năm 2020. Ngành nông nghiệp là khu vực chiếm 15% tổng sản phẩm quốc nội (GDP).Tuy nhiên, sản xuất nông nghiệp ở Việt Nam vẫn còn manh mún; sản phẩm có chất lượng và giá trị gia tăng thấp khả năng khắc phục thảm họa do thiên tai gây ra còn nhiều hạn chế. Nhìn chung, nông sản chế biến chưa ứng dụng công nghệ cao mà vẫn sử dụng kỹ thuật thủ công.
Trong xây dựng hệ sinh thái công nghệ nông nghiệp, đầu tư cho nghiên cứu chưa đủ mạnh; sản phẩm nông nghiệp của đất nước thiếu lợi thế cạnh tranh trên thị trường quốc tế. Ở trong nước, ngành chưa xây dựng được mạng lưới thị trường tiêu thụ có thể điều tiết được cung cầu. Mối liên kết giữa các doanh nghiệp còn thấp và trong hầu hết các phân ngành, người sản xuất đang tạo ra những nông sản giá trị thấp với nhiều bất cập trong hệ sinh thái công nghệ nông nghiệp. Mặc dù còn nhiều hạn chế, song nhận thức của người tiêu dùng về chất lượng thực phẩm ngày càng gia tăng, đang đòi hỏi phải biết rõ xuất xứ sản phẩm và các thông tin liên quan
Phân tích công nghệ sử dụng trong ngành có thể nhận thấy, hệ thống tiêu chuẩn chất lượng sản phẩm chưa sâu rộng khiến người sản xuất khó đảm bảo được uy tín và chất lượng sản phẩm. Ngành còn phụ thuộc vào việc sử dụng thuốc trừ sâu, thuốc diệt cỏ và phân hóa học; nông nghiệp hữu cơ chỉ mới được quan tâm gần đây. Chính phủ chú ý đến lĩnh vực nông nghiệp, đã ban hành nhiều chính sách hỗ trợ cho doanh nghiệp khởi nghiệp và những doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp và nông thôn, bao gồm cả thúc đẩy áp dụng công nghệ trong toàn chuỗi sản xuất nông nghiệp để tạo giá trị gia tăng. Tuy nhiên, chỉ một số lượng khiêm tốn doanh nghiệp được tiếp cận với những chính sách này.Từ năm 2017, chính phủ đã hỗ trợ và nhiều nước cũng đã cung cấp các khoản vay hỗ trợ phát triển chính thức về nông nghiệp nhằm tăng cường hợp tác giữa các đối tác để xây dựng chuỗi giá trị.
Phân tích xu thế phát triển, các nhà nghiên cứu nhận thấy, hệ sinh thái khởi nghiệp công nghệ Nông nghiệp của Việt Nam là lĩnh vực có nhiều hứa hẹn cho các công ty khởi nghiệp công nghệ. Mặc dù mục tiêu của đất nước là trở thành một quốc gia công nghiệp theo hướng hiện đại, song nhiều sản phẩm trong nền kinh tế vẫn phụ thuộc vào nông nghiệp. Số đông dân số trẻ hướng tới cởi mở kinh tếvà đầu tư vào nông nghiệp. Mặt khác, cuộc cách mạng công nghệ thứ tư với nhu cầu gia tăng sản phẩm nông nghiệp hữu cơ và an toàn đã tạo ra những cơ hội và thị trường mới thuận lợi cho các công ty khởi nghiệp. Thêm vào đó.,nhu cầu thực phẩm tươi sống hoặc chế biến sẵn an toàn và bổ dưỡng cũng là xu hướng thị trường mà các công ty khởi nghiệp cần quan tâm. Những vấn đề đặt ra đang đòi hỏi hoạt động khởi nghiệp công nghệ nông nghiệp phải có những bước chuyên mình để phục vụ thiết thực cho hoạt động sản xuất kinh doanh.
Nghiên cứu doanh nghiệp nông nghiệp Việt Nam, chuyên gia tư vấn của ADB nhận thấy, Công nghệ nông nghiệp là vấn đề đặc thù với hầu hết các đơn vị khởi nghiệp. Số lớn doanh nghiệp là những công ty nhỏ có quy mô trung bình dưới 20 lao động, Công ty nhỏ nhất có 10 công nhân, trong khi công ty lớn nhất cũng chỉ có 39 lao động bao gồm cả những người sáng lập và quản trị. Khoảng 40% nhân viên trong các công ty khởi nghiệp công nghệ nông nghiệp làm việc tại văn phòng như thiết kế, kế toán,tiếp thị, bán hàng.., phần nhân lực còn lại được giao trách nhiệm thử nghiệm, ,sản xuất, cũng như giao hàng, lắp đặt sản phẩm và sửa chữa, trong bối cảnh sản phẩm nông nghiệp yêu cầu dịch vụ tại trang trại hoặc đưa đến tận nơi tiêu dùng.
Hầu hết những người sáng lập công ty khởi nghiệp công nghệ nông nghiệp có bằng cử nhân về khoa học hoặc Công nghệ Thông tin (ICT). Đa số sáng lập viên còn rất trẻ (dưới 30 tuổi) và thường dành phần lớn thời gian cho các giải pháp kỹ thuật để phát triển sản phẩm.Nhiều người sáng lập đã có những ý tưởng kỹ thuật từ khi học tại các trường đại học hoặc kỹ thuật.
Những khảo sát gần đây về công ty khởi nghiệp công nghệ nông nghiệp cho thấy, số đông được thành lập từ các trường học, trong khi các ý tưởng tiếp thị đến có muộn hơn. Những người được hỏi cho biết họ cần dành nhiều thời gian hơn cho việc tiếp thị và giải quyết các vấn đề tài chính kinh doanh để tồn tại và phát triển. Tuyển dụng và duy trì nguồn nhân lực đầy đủ là khó khăn chung của các công ty khởi nghiệp, vì họ không thể trả lương cao và chưa sẵn sàng cho nhân viên của mình là chủ sở hữu công ty. Nhìn chung, các công ty khởi nghiệp công nghệ nông nghiệp có điểm mạnh là những người sáng lập trẻ, phần lớn dưới 30 tuổi, am hiểu công nghệ và đam mê thương mại hóa công nghệ mới. Nhiều người tốt nghiệp từ những trường đại học quốc gia hàng đầu hoặc đại học kỹ thuật được xếp hạng cao; kiến thức đào tạo, giúp họ tiếp cận được với công nghệ hiện đại, đặc biệt là CNTT. Kinh nghiệm thu nhận được mang lại cho họ niềm tin theo đuổi mục tiêu tận dụng sản phẩm làm ra; một số sản phẩm đã thu hút được sự chú ý của các công ty đầu tư mạo hiểm hoặc các công ty lớn. Tuy nhiên, sự thâm nhập thị trường và tính bền vững tài chính đang là một hạn chế đối với các công ty khởi nghiệp nhỏ. Báo cáo của ADB cho biết, tất cả các công ty khởi nghiệp được phỏng vấn cho biết hiệu suất của họ thấp hơn so với tiềm năng; hầu hết đều đã chỉ ra tỷ lệ doanh thu thấp hơn dự kiến, gây khó khăn cho hoạt động kinh doanh, Thiếu kiến thức và nỗ lực kinh doanh là vấn đề khá phổ biến của các công ty khởi nghiệp nông nghiệp hiện nay
Mặc dù tất cả đều nhận thức được tầm quan trọng của việc xây dựng thương hiệu, nhưng chưa có công ty khởi nghiệp được phỏng vấn nào tập trung vào thương hiệu, sở hữu trí tuệ(IPR) và vấn đề về quyền IPR. vì nhận thấy quá trình nộp đơn là phức tạp, đắt tiền và tốn thời gian.
Với tư cách là những doanh nghiệp trẻ, đa số người được hỏi cho rằng Việt Nam luôn là một nước nông nghiệp, cơ hội khởi nghiệp trong lĩnh vực nông nghiệp rất rõ ràng. Trong thực tế, ngành nông nghiệp đã nhận được nhiều hỗ trợ từ chính phủ kể từ năm 2017; tạo nhiều cơ hội mới cho các doanh nghiệp tại mọi nút của chuỗi giá trị. Ngày nay, nhu cầu về sản phẩm nông nghiệp với việc sử dụng tối thiểu hóa chất, nguồn gốc rõ ràng và có thể truy xuất được nguồn gốc ngày càng nhiều. Đảm bảo chất lượng đang trở thành nhu cầu cấp thiết trong thị trường nông sản mà các công ty khởi nghiệp nông nghiệp mới nổi có thể khai thác. Tuy nhiên 3 yếu tố hạn chế thường được trích dẫn đó là (i)điểm yếu cấu trúc vật lý và luật pháp, (ii) mối liên hệ thấp của nông nghiệp với đổi mới,và (iii) vốn đầu tư vào nông nghiệp thấp.
Hạn chế đầu tiên được đề cập là thể chất yếu và cơ sở hạ tầng pháp lý. Việt Nam có hệ thống cơ sở hạ tầng kỹ thuật số mới nổi không đồng đều. ở các thành phố có kết nối kỹ thuật số tốt hơn so với khu vực nông thôn. Sự bất bình đẳng này làm yếu kết nối hạ tầng thông tin Đây cũng là lý do khiến, các công ty khởi nghiệp công nghệ nông nghiệp dựa trên internet gặp khó khăn trong việc bao phủ các vùng nông thôn nơi nông nghiệp đang thịnh hành.
Hạn chế thứ hai là thiếu nghiên cứu trong nông nghiệp về công nghệ dùng làm cơ sở lý thuyết cho các công ty khởi nghiệp. Nghiên cứu tiên tiến trong nông nghiệp bị hạn chế do thiếu vốn, mặc dù lĩnh vực này chiếm 15% GDP và sử dụng một phần đáng kể lực lượng lao động. Đây cũng là nguyên nhân khiến rất ít doanh nghiệp khởi nghiệp nông nghiệp thành công. Nhiều doanh nghiệp nông nghiệpViệt Nam còn tập trung vào phát triển "các sản phẩm và dịch vụ thô sơ" sử dụng công nghệ đơn giản cùng với chiến lược tiếp thị tự phát là một thực tế dẫn đến mức độ đổi mới thấp trong lĩnh vực này. Cách khắc phục mức độ đổi mới thấp là để các công ty khởi nghiệp công nghệ trong nông nghiệp liên kết với nhau để tạo thành một hệ sinh thái hoặc một chuỗi giá trị hàng hóa nơi thông tin có thể được chia sẻ. Do đó, công nghệ nông nghiệp nên được tiếp cận với các giải pháp rộng hơn để giải quyết các vấn đề không chỉ ở cấp nông dân mà còn là các vấn đề đa ngành liên quan đến thông tin bất đối xứng cả về tài chính và hậu cần.
Sau cùng, những người sáng lập xác định, những nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vào khởi nghiệp nông nghiệp như một trở ngại liên tục, bởi nhà đầu tư quan tâm nhiều hơn đến các lĩnh vực sinh lợi hơn như thương mại điện tử, fintech, trò chơi, du lịch, hoặc các giải pháp doanh nghiệp. Do đó, khởi nghiệp công nghệ nông nghiệp dễ dàng tiếp cận vốn đầu tư mạo hiểm của doanh nghiệp trong nước hơn là doanh nghiệp nước ngoài.
Do tính chất chu kỳ và theo mùa của nông nghiệp, các công ty khởi nghiệp nông nghiệp thường
yêu cầu đầu tư dài hạn, đặc biệt là công nghệ thử nghiệm và nguyên mẫu, khiến cho việc kiếm lợi nhuận tức thì trở nên khó khăn . Cho vay ưu đãi và thành lập quỹ đầu tư có mục tiêu cụ thể đến công nghệ nông nghiệp là việc làm cần thiết Theo đó, Chính phủ cần ban hành chính sách ưu đãi đầu tư hoặc thuế chia sẻ với các công ty khởi nghiệp nông nghiệp hoặc có cơ chế đầu tư cụ thể vào hệ sinh thái khởi nghiệp công nghệ nông nghiệp.
Hỗ trợ hợp tác giữa các công ty khởi nghiệp công nghệ nông nghiệp với các doanh nghiệp nông nghiệp trong và ngoài nước,các tổ chức và tập đoàn để chia sẻ thông tin ,xác định nhu cầu và giải pháp là việc cần làm. Các nhà phân tích đã nhận ra sự cần thiết phải thích ứng với công nghệ mới để duy trì khả năng cạnh tranh giữa các đối tác và thậm chí là nhà đầu tư mạo hiểm cho các công ty khởi nghiệp công nghệ đều là những khách hàng. Và do vậy,Các chương trình có thể khái thác để tổ chức việc chuyển tiếp việc học hỏi và đào tạo tại các nước phát triển nơi công nghệ nông nghiệp đã phát triển; cần có chính sách đưa những người đã hoàn thành đào tạo thực tế, thực tập và làm việc ở nước ngoài trở về nước với kinh nghiệm và kiến thức sẵn có để làm việc và xây dựng công ty khởi nghiệp.
Sự phát triển của mạng lưới quốc gia đòi hỏi cần có những trao đổi về ý tưởng và tổ chức các công ty khởi nghiệp công nghệ nông nghiệp theo hướng liên kết với những nền tảng khởi nghiệp trong các lĩnh vực khác nhau với những hy vọng sớm thành công.