Thương mại thế giới và ở Việt Nam dưới góc nhìn của các định chế toàn cầu

Ngày 7/11/2006, tại Genevơ (Thụy sỹ) Việt Nam đã gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO). Từ ngày 11/1/2007, Việt Nam chính thức trở thành thành viên thứ 150 của tổ chức thương mại lớn nhất hành tinh. Sự kiện này đã để lại nhiều dấu ấn tích cực trong hành trình đổi mới và hội nhập quốc tế của Việt Nam.

Tham gia WTO và hội nhập quốc tế đã góp phần đổi mới tư duy chính sách, hoàn thiện chuẩn mực quản lý nhà nước, quản trị doanh nghiệp, định hình khung khổ pháp lý và các chuẩn mực phát triển kinh tế-thương mại, tạo cơ sở vững chắc, làm cầu nối và xung lựcđể đất nước từng bước mở cửa, mở rộng quy mô thị trường, cải thiên cơ cấu và nâng cao hiệu quả hoạt động thương mại quốc tế.

Bài viết đề cập đến những nội dung liên quan đến biến động thị trường toàn cầu và ở Việt Nam dưới góc nhìn của các định chế toàn cầu…

Xu thế tăng trưởng của thương mại hàng hóa toàn cầu

Sau kết quả yếu kém của năm 2023, báo cáo thước đo thương mại hàng hóa thế giới tháng 3 năm 2024 của WTO nhận định, thương mại hàng hóa toàn cầu gia tăng khiêm tốn. Trong Quý I/2024 chỉ đạt 100,6 cao hơn 0,6 điểm so với giá trị cơ bản (100). Điều này cho thấy, thương mại hàng hóa có khả năng dần phục hồi vào những tháng đầu năm 2024, nhưng căng thẳng địa chính trị tiếp tục gây rủi ro đối với triển vọng tăng trưởng ngắn hạn. Những chỉ số cơ bản của thước đo thương mại hàng hóa hầu hết ở mức trung bình, chỉ số đơn hàng xuất khẩu đạt 101,7, vận tải hàng không 102,3 chỉ tăng nhẹ so với xu hướng phát triển; trong khi chỉ số vận chuyển container mới đạt 98,6 và thương mại nguyên liệu thô 99,0 còn ở dưới mức yêu cầu. Chỉ số sản xuất và bán ô tô có cao hơn so với xu hướng, nhưng đang có dấu hiệu mất đà trong những tháng gần đây. Ngoài ra, sự phục hồi trong giao dịch linh kiện điện tử đã giảm xuống 95,6.

Ngân hàng Thế giới (WB) dự báo, tăng trưởng thương mại toàn cầu từ mức tăng 0,2% của năm 2023 lên 2,3% trong năm 2024, phản ánh sự phục hồi của nhu cầu đối với hàng hóa, đặc biệt tại những nền kinh tế phát triển. Quỹ tiền tệ, Thế, giới (IMF) nhận định, tăng trưởng thương mại thế giới đạt 3,3% vào năm 2024, thấp hơn mức trung bình 4,9% của giai đoạn 2000-2019. Căng thẳng thương mại gia tăng và sự phân mảnh địa kinh tế sẽ tiếp tục đè nặng lên tăng trưởng thương mại toàn cầu. Vào năm 2023, các quốc gia đã áp đặt khoảng 3.000 hạn chế, một mức tăng cao so với năm 2019 mới áp dụng khoảng 1.100 hạn chế.

thuong-mai-the-gioi-1715217228.png
Kể từ năm 1871, Mỹ đã duy trì vị thế là nền kinh tế lớn nhất thế giới    (Ảnh VÚSTA2022)

Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế thế giới (OECD) có cùng nhận định với WB khi cho rằng, thương mại toàn cầu năm 2024 vẫn trầm lắng, nhưng đã bắt đầu có dấu hiệu cải thiện. Sản xuất chất bán dẫn và điện tử ở châu Á gia tăng và doanh số bán ô tô tăng mạnh, giúp củng cố thương mại hàng hóa và dịch vụ; song những cuộc tấn công vào hoạt động vận tải ở Biển Đỏ, khiến các luồng hàng thương mại phải định tuyến lại, làm gia tăng chi phí vận chuyển và kéo dài thời gian giao hàng, đặc biệt đối với thương mại từ châu Á đến châu Âu. Điều này đã làm gián đoạn lịch trình sản xuất ở châu Âu, đặc biệt đối với các nhà sản xuất ô tô.

Lạm phát toàn cầu và xu hướng sụt giảm mục tiêu

Theo OECD, trong trường hợp không có thêm những cú sốc bất lợi về nguồn cung, nhu cầu hạ nhiệt cho phép giảm lạm phát ở hầu hết các nền kinh tế. W.B nhận định, lạm phát toàn cầu và lạm phát cơ bản tiếp tục giảm so với mức đỉnh 8,59% trong Quý III/2022. Tuy nhiên, lạm phát vẫn cao hơn mục tiêu ở hầu hết các nền kinh tế phát triển và khoảng một nửa số nước thuộc thị trường mới nổi và những nền kinh tế đang phát triển. Lạm phát toàn cầu năm 2024 được dự báo ở mức 3,7% cao hơn mức trung bình trước đại dịch, gần tiệm cận mức mục tiêu của các ngân hàng trung ương. Thắt chặt tiền tệ của những nền kinh tế phát triển dần đi đến hồi kết, nhưng lãi suất thực tế tiếp tục tăng cao cho đến khi trở lại mức mục tiêu thực tế, khiến việc hạn chế chính sách tiền tệ của những nền kinh tế phát triển sẽ còn tiếp tục duy trì.

IMF đồng quan điểm khi cho rằng, lạm phát toàn cầu sẽ giảm từ mức 6,8% trong năm 2023 xuống 5,8% vào năm 2024. Theo đó, năm 2024, mức lạm phát của những nền kinh tế phát triển giảm nhanh, đạt 2,6% trong khi lạm phát ở các thị trường mới nổi và các nền kinh tế đang phát triển chỉ giảm nhẹ, đạt 8,1%.

Cho đến nay, xung đột ở Trung Đông tác động không đáng kể đến giá cả hàng hóa. Giá trung bình của hầu hết các mặt hàng đã giảm từ năm 2023 trong bối cảnh nhu cầu giảm, tuy nhiên giá vẫn còn cao hơn mức trước đại dịch.

Do nhu cầu thấp từ các nền kinh tế; đặc biệt là Trung Quốc, quốc gia chiếm 60% lượng tiêu thụ kim loại toàn cầu, giá kim loại đã giảm 10% trong năm 2023, trong bối cảnh lĩnh vực bất động sản của nước này suy yếu kéo dài.

Vào năm 2024, khi hoạt động toàn cầu chậm lại và nền kinh tế Trung Quốc tiếp tục giảm tốc, Giá kim loại được dự báo sẽ còn giảm hơn nữa trong năm 2024, trước khi tăng vào năm 2025 khi lĩnh vực bất động sản của Trung Quốc ổn định và nhu cầu về kim loại được sử dụng trong quá trình chuyển đổi xanh gia tăng,

Giá lương thực đã giảm 9% trong năm 2023, phản ánh nguồn cung dồi dào từ các loại cây trồng chính, đặc biệt, là ngũ cốc. Trong bối cảnh hạn chế xuất khẩu gạo từ Ấn Độ giá lúa gạo có lúc tăng tới 27%; nhưng theo nhiều dự báo, giá lương thực sẽ tiếp tục giảm khoảng 1% trong năm 2024. Do giá ngũ cốc và dầu thực vật giảm nhiều hơn so với mức tăng của giá đường, thịt và các sản phẩm từ sữa. So với cùng kỳ năm trước, chỉ số giá lương thực, thực phẩm của FAO (FFPI) tháng 02/2024 ở mức 117,3 điểm, giảm 13,8 điểm (tương ứng giảm 10,5%) so với cùng kỳ năm trước.

Điều kiện tài chính đã nới lỏng, nhưng tăng trưởng tín dụng toàn cầu vẫn yếu

OECD cho rằng, điều kiện tài chính toàn cầu gần đây đã nới lỏng, những người tham gia thị trường tài chính dự đoán lãi suất chính sách sẽ giảm nhanh hơn so với dự kiến. Lợi suất trái phiếu dài hạn giảm, biến động giá cổ phiếu cũng giảm theo. Tuy nhiên, tăng trưởng tín dụng vẫn yếu do tác động của lãi suất cho vay cao và các tiêu chuẩn tín dụng ngày càng chặt chẽ hơn.

Theo WB, lợi suất dài hạn trái phiếu chính phủ của các nền kinh tế phát triển biến động trong năm 2023, phản ánh kỳ vọng thay đổi về lộ trình tăng trưởng lãi suất trong tương lai và những biến động về phí bảo hiểm có kỳ hạn. Mặc dù lợi suất đã giảm so với mức đỉnh 4,1% cuối tháng 10/2023, nhưng vẫn gia tăng rủi ro tài chính, bởi nợ chính phủ so với GDP toàn cầu đã tăng 20 % kể từ năm 2007.

Liên quan đến chính sách tài khóa, trong năm 2023, các quốc gia phát triển có xu hướng nới lỏng chính sách tài khóa. Hoa Kỳ đã nới lỏng chính sách nhiều hơn so với khu vực đồng Euro và các nền kinh tế đang trong quá trình phục hồi. Các nền kinh tế thị trường mới nổi và đang phát triển giữ lập trường tài chính trung lập, ngoại trừ Brazil và Liên bang Nga. IMF nhận định, trong năm 2024, lập trường chính sách tài khóa sẽ thắt chặt dần ở một số quốc gia phát triển, thị trường mới nổi cũng như các nền kinh tế đang phát triển, nhằm tích lũy dư địa ngân sách và hạn chế gia tăng nợ. Theo đó, sẽ ảnh hưởng đến nhịp độ tăng trưởng của các nền kinh tế trong thời gian tới.

Thị trường lao động phục hồi nhưng không đồng đều

Theo UN, thị trường lao động toàn cầu phục hồi nhanh kể từ sau đại dịch. Tuy nhiên, sự phục hồi diễn ra không đồng đều, Năm 2023, tỷ lệ thất nghiệp ở nhiều nền kinh tế giảm xuống dưới mức trước đại dịch, đạt mức thấp lịch sử là Hoa Kỳ và một số nền kinh tế châu Âu; đặc biệt những nền kinh tế đang phát triển đã trải qua những xu hướng khác nhau. Brazil, Trung Quốc và Thổ Nhĩ Kỳ chứng kiến tỷ lệ thất nghiệp giảm, nhưng nhiều nước đang phát triển khác; đặc biệt là ở Tây Á và châu Phi phải đương đầu với tỷ lệ thất nghiệp cao. Ở hầu hết các nền kinh tế, tăng trưởng tiền lương không thể bù đắp được tác động của lạm phát đã làm trầm trọng thêm khủng hoảng chi phí sinh hoạt. Thị trường lao động ở các nước đang phát triển tiếp tục đối mặt với những thách thức dai dẳng về việc làm phi chính thức, chênh lệch giới tính và tỷ lệ thất nghiệp ở thanh niên cao.

Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO) nhận xét, tăng trưởng việc làm thể hiện khả năng phục hồi của thị trường lao động. Năm 2023, nhờ tốc độ tăng trưởng việc làm mạnh mẽ, tỷ lệ thất nghiệp và khoảng cách việc làm đều giảm xuống dưới mức trước đại dịch. Tỷ lệ thất nghiệp toàn cầu năm 2023 là 5,1%, khoảng cách việc làm được cải thiện nhưng vẫn còn tới 435 triệu người thiếu việc làm

Tỷ lệ tham gia thị trường lao động phần lớn đã phục hồi sau đại dịch, đặc biệt là ở các quốc gia có thu nhập trung bình thấp. Tuy nhiên, triển vọng thị trường lao động trong thời gian tới chững lại khi tỷ lệ thất nghiệp tăng nhẹ từ mức 5,1% của năm 2023 lên 5,2% vào năm 2024.

Những rủi ro tác động tới triển vọng kinh tế thế giới

IMF chỉ ra bốn nhân tố rủi ro chính làm giảm triển vọng tăng trưởng kinh tế toàn cầu, suy giảm bao gồm:

Thứ nhất, giá hàng hóa tăng đột biến trong bối cảnh những cú sốc địa chính trị và thời tiết. Xung đột ở Trung Đông có thể leo thang, ảnh hưởng tới các khu vực sản xuất khoảng 35% lượng dầu và 14% lượng khí đốt xuất khẩu của thế giới. Các cuộc tấn công liên tục ở Biển Đỏ, nơi chiếm 11% dòng chảy thương mại toàn cầu, và xung đột ở U-crai-na có nguy cơ tạo ra những cú sốc bất lợi mới về nguồn cung đối với sự phục hồi toàn cầu, do chi phí lương thực, năng lượng và vận chuyển gia tăng đột biến. Sự phân mảnh địa kinh tế ngày càng tăng, có thể hạn chế dòng hàng hóa xuyên biên giới, gây thêm biến động giá cả. Những cú sốc thời tiết cực đoan, bao gồm lũ lụt và hạn hán, cùng với hiện tượng El Nino, có thể khiến giá lương thực tăng cao, làm trầm trọng thêm tình trạng mất an ninh lương thực và làm gián đoạn quá trình giảm lạm phát toàn cầu.

thuong-mai-the-gioi-1-1715217228.png
Căng thẳng thương mại có thể tiếp tục leo thang. Nguồn: internet

Lạm phát cơ bản có thể kéo dài, đòi hỏi chính sách tiền tệ phải chặt chẽ hơn. Lạm phát cơ bản giảm chậm hơn dự kiến ở những nền kinh tế phát triển do thị trường lao động thắt chặt và căng thẳng gia tăng trong các chuỗi cung ứng, khiến lãi suất có thể gia tăng làm giảm giá trị tài sản. Những diễn biến này làm tăng rủi ro về tài chính toàn cầu, kích thích các dòng vốn chuyển sang nơi trú ẩn an toàn. Đồng đô la Mỹ được củng cố có thể gây những hậu quả bất lợi cho thương mại và tăng trưởng của một số quốc gia.

Thứ ba là tăng trưởng chững lại ở Trung Quốc. Đầu tư bất động sản có thể giảm nhiều hơn và kéo dài tác động tiêu cực đến tăng trưởng trong nước và các đối tác thương mại thắt chặt tài chính ngoài dự kiến có thể xảy ra khiến tiêu dùng của hộ gia đình bị suy giảm.

Củng cố tài khóa là cần thiết ở nhiều nền kinh tế để đối phó với tỷ lệ nợ gia tăng. Tuy nhiên, sự chuyển dịch quá mạnh sang tăng thuế và cắt giảm chi tiêu vượt dự kiến có thể dẫn đến tăng trưởng chậm lại. Phản ứng thị trường có thể gây áp lực khi thực hiện những điều chỉnh khắc nghiệt tại các quốc gia có nền tảng tài khóa trung hạn thiếu vững chắc. Điều này dẫn tới những hạn chế đầu tư nhằm thúc đẩy tăng trưởng.

Thương mại Việt Nam sau ngày gia nhập WTO

Từ góc nhìn thế giới, những năm gần đây Quy mô nền kinh tế Việt Nam ngày càng phát triển với động lực tăng trưởng doanh thu từ hoạt động thương mại. Năm 2021 riêng doanh thu thương mại điện tử (TMĐT) đã đóng góp tới 13 tỷ USD vào tổng doanh thu của nền kinh tế.Theo Bộ Công Thương, với sự phục hồi dần thị trường thế giới, các đơn hàng xuất khẩu của Việt Nam đã gia tăng trong bối cảnh khó khăn của kinh tế toàn cầu. Động thái xuất nhập khẩu hang hóa năm 2023 so với năm 20922 đươc thể hiện trong hình 2

Trong quý 4/2023 kim ngạch xuất khẩu dịch vụ ước đạt 5,4 tỷ USD, tăng 15,2% so với cùng kỳ năm 2022 và tăng 6,5% so với quý trước; kim nhập khẩu dịch vụ ước đạt 8,1 tỷ USD, tăng 20,4% so với cùng kỳ năm trước và tăng 3,4% so với quý trước.

thuong-mai-the-gioi-2-1715217228.png
Tăng trưởng xuất khẩu, nhập khẩu hàng hóa của Việt Nam các tháng năm 2023 so với cùng kỳ năm 2022

Theo UN trong nền kinh tế VN, tiêu dùng cá nhân sẽ duy trì ở mức ổn nhờ lạm phát giá và thị trường lao động được cải thiện. Việc mở cửa trở lại và lượng khách du lịch quốc tế hồi phục giúp tăng cường doanh thu từ dịch vụ du lịch ,góp phần vào tăng trưởng xuất khẩu dich vụ. Theo đó, UN đã nâng dự báo tăng trưởng kinh tế năm 2024 của Việt Nam lên 6% tăng 1,3% so với mức tăng 4,7% của năm 2023.

Trong báo cáo cập nhật kinh tế vĩ mô Việt Nam tháng 01/2024; WB nhận định, sản xuất công nghiệp tiếp tục dược cải thiện nhưng triển vọng còn ảm đạm. Tiếp nối đà hoạt động kinh tế tích cực kể từ Quý IV/2023, chỉ số sản xuất công nghiệp đã tăng 2,08% so với tháng trước và 18,3% so với cùng kỳ năm trước. Xuất nhập khẩu hàng hóa tiếp tục phục hồi do nhu cầu bên ngoài được cải thiện, tăng 11,1% so với tháng trước và 42,0% so với cùng kỳ năm trước. Hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) vẫn ổn định khi cam kết FDI đạt gần 2,4 tỷ USD trong tháng 01/2024. Giải ngân vốn FDI đạt 1,5 tỷ USD trong tháng 01/2024, cao hơn 9,6% so với một năm trước đó. Tuy nhiên, tăng trưởng tiêu dùng chưa đạt kỳ vọng do niềm tin của người tiêu dùng còn yếu. Sự gia tăng của chi phí logistics quốc tế đối với thương mại hàng hóa do xung đột Trung Đông, mặc dù mang tính thời điểm tạm thời, nhưng có thể ảnh hưởng tiêu cực đến xuất khẩu và sự phục hồi của nền kinh tế. Chênh lệch giữa lãi suất toàn cầu và trong nước có thể gây áp lực lên thị trường ngoại hối. WB dự báo kinh tế Việt Nam tăng trưởng 5,5% trong năm 2024, cao hơn mức 4,7% của năm 2023.

Báo cáo của AMRO nhấn mạnh, nhu cầu trong nước mạnh lên tiếp tục củng cố tăng trưởng. Tiêu dùng tư nhân ổn định nhờ điều kiện thị trường lao động thuận lợi trong bối cảnh lạm phát thấp doanh số bán lẻ và chi tiêu cho dịch vụ tiếp tục gia tăng, Do được hưởng lợi từ sự phục hồi của du lịch và lữ hành xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam và ASEAN+3 được cải thiện. Nhu cầu hàng hóa từ Hoa Kỳ dần trở lại bình thường tác động tích cực đến xuất khẩu trong khu vực. Ngành Du lịch giúp xuất khẩu dịch gia tăng, với sự trở lại của khách du lịch từ mọi quốc gia. Lạm phát có chiều hướng giảm cùng với giá hàng hóa toàn cầu, giá lương thực giảm do sản lượng sản xuất gia tăng. Theo đó, AMRO dự báo kinh tế Việt Nam tăng trưởng 6,0% trong năm 2024, cao hơn 0,9% so với mức tăng 5,1% trong năm 2023.

Theo Trading Economics, tăng trưởng Quý I/2024 của Việt Nam so với cùng kỳ năm trước đạt 4,9%

 Như vậy là, các tổ chức quốc tế đều dự báo tăng trưởng của Việt Nam năm 2024 tăng so với năm 2023, đạt mức tăng từ 5,5% đến 6,0%.

Thay cho lời kết

Tổng Giám đốc WTO, Ngozi Okonjo-Iweala đã đến Việt Nam và từng chia sẻ, sự tăng trưởng, phát triển liên tục của Việt Nam trong hơn một thập kỷ kể từ ngày Việt Nam trở thành thành viên WTO, nhất là trong giai đoạn biến động của thế giới là một kỳ tích, Việt Nam vẫn luôn là một tấm gương cho các nước đang phát triển. Bà đã bày tỏ hy vọng Việt Nam sẽ đóng góp tích cực vào các tiến trình phát triển của WTO.

Phân tích thực trạng kinh tế Viêt Nam gần đây, chuyên gia nghiên cứu tổng hợp của Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB) cho rằng, nhu cầu toàn cầu suy giảm và lãi suất quốc tế cao đã tác động mạnh đến tăng trưởng kinh tế của Việt Nam trong năm 2023. Tuy nhiên, việc chuyển hướng nhanh sang chính sách tiền tệ hỗ trợ tăng trưởng và đầu tư công quy mô lớn là một trong những biện pháp then chốt được thực hiện để duy trì phục hồi tăng trưởng.

Trong bối kinh tế toàn cầu suy giảm, sự phối hợp kịp thời, chặt chẽ, hiệu quả của các cơ quan trong hệ thống chính trị, sự điều hành chủ động, linh hoạt, quyết liệt của Chính phủ cùng với sự chỉ đạo tập trung của các cấp, các ngành, sự đoàn kết, tin tưởng, ủng hộ của Nhân dân và cộng đồng doanh nghiệp, tình hình kinh tế-xã hội ở Việt Nam năm 2023 tiếp tục xu hướng phục hồi ổn định, lạm phát trong tầm kiểm soát, các cân đối lớn được đảm bảo, nhiều kết quả quan trọng trên các lĩnh vực đạt được mục tiêu đề ra.

Hy vọng từ thưc tế nước ta và những nhận xét khách quan của các định chế toàn cầu, nền kinh tế hội nhập nước ta sẽ phát triển tốt, đạt được kỳ vọng đến năm 2045 trở thành quốc gia phát triển có mức thu nhập cao.