Cầu Long Biên: Ký ức thời gian và những điều cần biết!

Cầu Long Biên là cây cầu bắc qua sông Hồng kết nối 3 quận Hoàn Kiếm,  Ba Đình và Long Biên của Hà Nội, được xây dựng bởi công ty Daydé & Pillé.Trên đầu cầu hiện vẫn còn tấm biển có ghi thời gian thi công (1899-1902) và nhà thầu xây dựng Daydé & Pillé - Paris.

Cầu Long Biên, cây cầu thép bắc qua sông Hồng là một trong những cây cầu lớn trên thế giới lúc bấy giờ. Nó không chỉ thể hiện sức mạnh về kinh tế mà nó còn là niềm kiêu hãnh về khoa học kỹ thuật hiện đại của người Pháp trên đất Đông Dương. Cầu Long Biên có tên gọi là cầu Doumer, tên của Toàn quyền Đông Dương (Paul Doumer) có nhiệm kỳ đúng bằng thời gian xây dựng cây cầu (1897-1902).Để góp phần tìm hiểu về cây cầu lịch sử, bài viết lược ghi những dòng hồi ký của Toàn quyền Paul Doumer viết về việc xây cầu, do Nguyễn Văn Trường, làm việc tại Trường Viễn Đông Bác cổ Hà Nội trích dịch từ cuốn hồi ký Đông Dương thuộc Pháp của Paul Doumer, do nhà xuất bản Vuibert & Nony, tại Paris ấn hành năm 1930.

Cầu Long biên cây cầu thép hiện đại chứng nhân lịch sử trong các cuộc kháng chiến thần kỳ

Tư liệu xưa còn ghi chép lại, ngày 12 tháng 9 năm 1898 diễn ra lễ khởi công xây dựng và sau 3 năm 9 tháng cầu hoàn thành (kế hoạch đề ra dự định mất 5 năm). Để xây dựng cầu, người ta phải tuyển mộ hơn 3000 công nhân và một đội ngũ khoảng 40 giám đốc, kỹ sư, chuyên gia và đốc công người Pháp để điều hành  Những người xây dựng cho biết, phải dùng đến 30.000 m³ đá và kim loại, bao gồm 5600 tấn thép cán, 137 tấn gang, 165 tấn sắt và 7 tấn chì, với số tiền thực chi lên tới 6,2 triệu franc Pháp ngày ấy.

Cầu bắc qua sông dài 2290 m và 896 m cầu dẫn, gồm 19 nhịp dầm thép đặt trên 20 trụ (kể cả móng) cao hơn 40 m và đường dẫn xây bằng đá. Cầu có đường sắt đơn ở giữa, 2 bên là đường xe cơ giới và đi bộ. Đường dành cho các loại xe rộng 2,6 m và luồng đi bộ là 0,4 m. Luồng giao thông theo hướng đi xuôi phía trái cầu chứ không ở bên phải như các cầu thông thường khác.

Trong hồi ký của mình,Toàn quyền Đông Dương Paul Doumer  từng ghi "kết quả thu được cho thấy sức mạnh của nền văn minh Pháp. Tiến bộ khoa học, sức mạnh công nghệ đã chinh phục được người dân địa phương, những người từng không khuất phục trước súng đạn. Tôi vui mừng chứng kiến Bắc Kỳ trước đó 5 năm còn nghèo khó, run rẩy và lo sợ, giờ trở thành một vùng bình yên, trù phú và tự tin.

Được hưởng nhiều tiến bộ hơn những địa phương khác, Hà Nội đã trở thành một Thủ đô to đẹp nơi người ta chứng kiến những công trình mới, những ngôi nhà theo kiến trúc Âu châu mọc lên từng ngày. Người dân địa phương tham gia vào quá trình thay đổi này với những ngôi nhà xây bằng gạch ngày càng nhiều hơn. Từ năm 1898 đến 1902, toàn Bắc Kỳ, đặc biệt là Hà Nội, vận động không ngừng nghỉ, dân số tăng đáng kể. Nếu như năm 1897 có khoảng 30.000 người ở Hà Nội, thì đến năm 1902 đã lên hơn 120.000 người”.

Trên một thế kỷ tồn tại, cầu Long Biên không chỉ nổi tiếng bởi là công trình sát thép mang tầm thế giới lúc xây dựng, mà còn là chứng nhân lịch sử của những năm kháng chiến chống thực dân Pháp và những ngày chông Mỹ xâm lược sau này. Trong chiến dịch Sấm Rền (1965–1968) cây cầu bị máy bay Mỹ ném bom 10 lần, hỏng 7 nhịp và 4 trụ lớn. Trong Chiến dịch Linebacker II của không lực Hoa Kỳ (1972) cầu Long Biên bị ném bom 4 lần, phá hỏng 1500 mét cầu và hai trụ lớn bị cắt đứt. Để bảo vệ cầu, bộ đội công binh và lực lượng phòng không đã xây dựng hai trận địa pháo cao 11,5 m trên bãi cát nổi giữa sông Hồng (bãi giữa), để có thể bắn máy bay Mỹ khi có lũ cao nhất. Các nhịp của cầu bị bom đánh sập đã được thay bằng các dầm bán vĩnh cửu, có khẩu độ ngắn đặt trên các trụ mới.Lịch sử sử dụng cầu Long Biên đã chứng kiến các điểm cao trên thành cầu trở thành ụ pháo cao xạ chống máy bay Mỹ trong thời gian chiến tranh.

Trong những năm chiến tranh chống Mỹ 1965–1967, các lực lượng vũ trang của Quân đội nhân dân Việt Nam đã bảo vệ cầu Long Biên như thả bóng hơi, tạo sương mù của lực lượng bộ đội hoá học đối với máy bay Mỹ. Đặc biệt các tiểu đội cao xạ 12,7 ly và 14,5 ly đã anh dũng cắm chốt tử thủ trên các đỉnh cao nhất của cầu để bắn các phi đội F4 của Mỹ ném bom phá cầu. Hàng ngày lực lượng phòng không đã trực chiến 24/24 ăn ở sinh hoạt tại chỗ, được đồng đội tiếp tế cơm nước từ dưới kéo lên.Sang thời bình, do giao thông ngày một tăng trong thập kỷ 90, cầu Long Biên được sử dụng cho tàu hỏaxe đạp và người đi bộ. Hà Nội đã xây dựng thêm nhiều cầu như Thăng Long,Nhật Tân, Chương Dương, Thanhh Trì nhằm đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tếxã hội đô thị ở hai  bờ sông Hồng .

Ký ức của Paul Doumer về việc xây cầu Long Biên

Mở đầu hồi ký. ngay từ những ngày đầu tới Đông Dương Paul Doumer đã ghi "Có một việc cần thiết phải làm ngay đối với tôi. Đó là xây một cây cầu lớn bắc qua Sông Hồng, phía chính diện Hà Nội. Con sông lớn này nằm ngang, rộng 1700 mét phân chia thành phố với các tỉnh bên tả ngạn. Lòng sông thường bị tắc nghẽn vì những bãi nổi bồi lên nhanh và lở đi cũng rất nhanh theo dòng nước chảy. Người bản xứ vượt qua sông này rất khó khăn, tốn kém, đôi khi rất nguy hiểm. Đường sắt từ Lạng Sơn về Hà Nội đã được xây dựng, nhưng không có cầu nên tàu phải phải dừng lại ở bên kia bờ, cách sông Hồng ba cây số rất xa thành phố, nơi đáng lẽ phải là điểm tận cùng của tuyến đường sắt này. Trong những điều kiện như vậy, giao thông thường chậm, không thuận tiện và chi phí tương đối cao.

Ý tưởng của tôi định xây dựng ở Bắc kỳ nhiều tuyến đường sắt quy tụ về Hà Nội và cũng từ Hà Nội có đường đi biển, đường đi Trung kỳ và đường đi Trung Quốc nhưng tôi không thể hình dung hệ thống đường sắt lại bị Sông Hồng phân đôi hai nửa.

Lợi ích của việc xây cầu là rất rõ, nhưng khả năng làm được hay không, và có làm thì phải kéo theo một khoản tiền kếch sù, lại đáng nghi ngại. Những người hoài nghi và chống đối ở cả Hà Nội và Paris đều có khá nhiều. Tôi phải vượt qua khó khăn khi đưa ra đấu thầu, và khởi công xây dựng vì yếu tố con người, phải được cân nhắc bởi những chỉ trích, những dèm pha nhưng tôi không sợ thất bại và không nản chí. Với ý chí kiên trì và quyết tâm , cuối cùng tôi cũng làm giảm đi nhanh chóng những ý tưởng chống đối

Theo ông, việc định làm không phải là một công trình tầm thường chỉ làm cho xong mà là một cây cầu đáng được dư luận thế giới chú ý do tầm quan trọng và những khó khăn cần phải vượt qua. Dự án được thông qua và đề ra là phải thi công hoàn hảo, không chậm tiến độ và không được để xảy ra sự cố hay tai nạn.

Công trình xây dựng gồm một cầu bằng kim loại đặt trên những trụ và mố cầu xây. Chiều dài của cầu giữa những mố ở hai bên bờ là 1680 mét, gồm 19 nhịp vững chắc được tạo nên bằng những rầm thép kiểu rầm chìa, hai mươi trụ chống được xây, tất cả mố cầu và cột trụ có chân trụ chôn sâu ba mươi mét dưới đất rắn tính từ mực nước thấp nhất của dòng sông Hồng, và cao hơn mực nước này mười ba mét rưỡi. Như vậy tổng chiều cao của các mố và trụ là bốn mươi ba mét rưỡi (43m50). Phần giữa cầu dọc theo các sườn chính là dành đường cho tàu hỏa chạy, phần đường bộ là phần nhô ra hai bên. Trên bờ hữu ngạn, phía trong thành phố Hà Nội, cầu được kéo dài bằng cầu cạn xây bằng gạch, dài tám trăm mét (800m), kể cả cầu cạn cầu có tổng chiều dài hai nghìn năm trăm mét.(2.500m)  Đây là một trong những cây cầu lớn nhất thế giới, một công trình vĩ đại và đáng chú ý nhất cho tới nay được thi công ở Viễn Đông.

Là toàn quyền Đông Dương ngày ấy P.Doumer cho rằng, cây cầu làm nên vinh quang cho người lao động bản sứ An Nam, các kỹ sư và kỹ thuật viên người Pháp. Nhờ vào kết quả lao động của những người thợ châu Á, nhiều người An Nam đã xây nên các mố, trụ cầu để một cây cầu bằng thép được dựng lên. Một phần của công trình được xây nên với vô vàn khó khăn chưa từng có ở một xứ khí hậu khắc nghiệt, thời tiết đổi thay bất thường. Một phần công trình được tạo nên với các trụ đỡ bằng đá, mố ở hai bên bờ và các trụ ở các vị trí khác nhau trên mặt sông, móng cầu được những người thợ làm việc trong điều kiện phải dùng thùng khí nén, dưới độ sâu trung bình ba mươi hai mét tính từ mực nước thấp nhất trong mùa khô.

Paul Doumer kể lại “Khi tôi đặt viên đá đầu tiên cho cây cầu Hà Nội vào tháng chín năm 1898, mố cầu bên tả ngạn đã được xếp bằng một phần đá thẳng hàng với các phần đá khác có cắm cờ, đánh dấu những vị trí xây trụ. Trong số những người Pháp đến dự lễ khởi công hôm ấy, từ tướng Bichot, tổng tư lệnh quân đội và Đô đốc Beaumont, Tư lệnh hạm đội đến người lính thường; từ kỹ sư trưởng ngành cầu đường đến các giám sát viên công trình, rất nhiều người hoài nghi, không tin là công trình đồ sộ này có thể thực hiện được. Còn người bản xứ, khi được biết về dự án xây cầu, họ coi đây là một hành vi điên rồ - Bắc cầu qua sông Hồng ư ? chẳng khác nào chất núi này lên núi khác để leo lên trời. Một con sông rộng như một eo biển, sâu trên hai chục mét, vào mùa lũ , mặt nước còn dâng lên cao tám mét nữa, dòng sông thì hay di chuyển, chỗ này bồi đắp, chỗ kía xói lở - một con sông như thế, sao có thể trị được ? làm sao có thể chống chọi được với làn sóng hung dữ ?

Dù có tư tưởng thông thoáng nhất, tinh thần cởi mở nhất song số đông người tham dự khởi công đều nghi ngờ quyết định của người xây cầu và hạ giọng nói nhỏ đó là một việc hết sức rồ dại.

Thế nhưng chỉ mấy tháng sau, các trụ cầu nhô lên khỏi mặt nước, các nhịp cầu bằng thép bắt đầu được xây lắp những người hoài nghi mới chịu thán phục thốt lên Thật là kỳ diệu!

Từ lâu người ta chỉ biết những gì người Pháp làm trong chiến tranh. Bây giờ người ta mới thấy người Pháp làm những điều không kém trong sự nghiệp hòa bình. Họ đã chứng tỏ họ mạnh trong việc phá, nay người ta lại thấy họ cũng mạnh không kém trong việc xây.

Người ta liên tục tò mò hỏi những người thợ của công ty xây dựng vì thấy họ làm việc phải thở tự do trong các thùng ép hơi kín bằng sắt như trên một con tàu, các thùng hơi kín mít ấy cứ chìm mỗi ngày mỗi sâu xuống dưới nước. Các thùng ép hơi ở độ sâu hai mươi mét dưới mặt nước, phải chịu áp lực cao, rồi lại nhấn sâu xuống hai mươi nhăm mét, ba mươi mét, áp lực rất lớn đã lên tới ba át-mốt-phe, rồi sâu thêm nữa đến ba mươi mốt, ba mươi hai mét, đôi khi ba mươi ba mét, ở độ sâu này điều kiện làm việc cực kỳ nặng nhọc. Những người thợ An Nam thân hình bé nhỏ song làm việc ở độ sâu như thế mà không sợ, không một lời phản kháng. Họ tự hào về điều đó, khi họ được kéo lên bờ, dân chúng xúm quanh tỏ lời thán phụcNhà thầu cầu tổ chức và chỉ đạo thi công, biết chăm sóc chu đáo công nhân, làm họ gắn bó với công ty. Các kíp thợ làm việc trong điều kiện thở bằng mặt nạ chỉ làm việc bốn tiếng một ca. Sau đó họ được đưa lên cạn để kíp khác xuống thay thế.:

Về xây dựng cầu P.Doumer cho biết  “Công việc xây dựng được tiến hành với những phương tiện hện đại, những cố gắng không ngừng đáng được ghi nhận. Các hàng trụ cầu hoàn thành đến đâu, những rầm thép được đưa từ Pháp về kịp thời đến đấy và được lắp ráp ngay. Người ta trông thấy cây cầu tiến dần từng ngày trên sông. Lại chính những người bản xứ đã ghép những tấm kim loại, vận hành máy nâng có công suất lớn và tra các đinh tán. Tuy người An Nam không khỏe bằng người Trung Quốc nhưng họ tích cực và khéo léo hơn nên có hiệu suất cao hơn. Các kỹ sư Pháp ưa thích người thợ An Nam hơn”.

Sau ba năm khởi công, cây cầu khổng lồ đã hoàn thành. Nhìn gần, bộ sườn cầu bằng thép trông thật vĩ đại. Chiều dài của cây cầu tưởng như vô tận. Nhưng từ dưới sông nhìn lên trong bức tranh toàn cảnh nó chỉ như một cái lưới mắt cáo thanh thoát, một dải đăng-ten giăng giữa trời.   

aha-1658637993.png

Cầu Long Biên ảnh tư liệu

Trong phần cuối hồi ký Paul Doumer ghi lại “Tôi đã khánh thành cầu Hà Nội, cây cầu Doumer với tên của tôi được đặt vào tháng 2 năm 1902, cùng lúc với đoạn đầu tiên của hệ thống đường sắt Đông Dương. Từ đây tuyến đường sắt Hải Phòng-Hà Nội, nối thủ đô với biển đã được đưa vào khai thác. Chuyến tàu đầu tiên đã đi vào thành phố, tàu qua cầu và đã vươt trên 100 km đường sắt để chính thức khai trương tuyến đường. Và cũngchính tuyến đường này đưa tôi trở về Pháp sau khi kết thúc nhiệm kỳ của tôi ở Đông Dương.

Tôi rất hài lòng được thấy xứ Bắc Kỳ 5 năm trước còn nghèo khó, run sợ, nhút nhát, nay đã biến đổi như thay da đổi thịt thành một miền đất có hòa bình, giàu hơn. Hà Nội đã trở thành một thủ đô to lớn và xinh đẹp với những tượng đài, những tòa nhà theo phong cách châu Âu đã và đang mọc lên từng ngày với một nhịp độ phát triển phi thường. Bản thân người An Nam hình như không chịu đứng ngoài cuộc, tham gia cuộc chơi đến cùng. Nhà gạch của người An Nam mọc lên san sát, ngày một nhiều trên các đường phố. Trong khoảng thời gian từ 1898 đến 1902, trên toàn xứ Bắc Kỳ, đặc biệt là Hà Nội, đâu đâu cũng hoạt động miệt mài, không mệt mỏi trên tất cả các mặt của đời sống. Dân số thành phố tăng nhanh: từ ba chục nghìn dân năm 1897, đến năm 1902 ước tính có một trăm hai mươi nghìn dân.

 

Theo Hồi ký của Paul Doumer

Bản dịch của Nguyễn văn Trường