5 năm trước, vào ngày 19 tháng 8 băm 2017, trên cổng thông tin Chính phủ (Chính phủ.vn)đã có bài viết với tựa đề “Mười lăm ngày xác tín một dự báo 1945 Việt nam độc lập” đã mô tả không khí sôi động cả nước trong cuộc cách mạng thần kỳ của dân tộc.
Nhân kỷ niệm 77 năm cách mạng tháng 8 và ngày Quốc khánh năm nay, Diễn đàn Nông thôn và Phát triển xin trích đăng lại bàu viết này để chia sẻ cùng bạn đọc để rộng đường trao đổi.
Dưới đây là nhưng nội dung cơ bản
Tháng 2 băm 1942, Chiến tranh thế giới lần thứ II phát triển đến giai đoạn quyết liệt, các mặt trận đang mở rộng cả ở châu Âu và châu Á. Phát xít Đức đã chiếm một nửa châu Âu, mặt trận Xô-Đức đi vào bước ngoặt quan trọng; Phát xít Nhật mở rộng cuộc chiến ra toàn khu vực Đông Nam Á, đánh bại lực lượng hỗn hợp Đồng minh. Khi đó chưa ai có thể nói đến chiến tranh thế giới sẽ kết thúc thế nào, thì ở Việt Nam, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã dự báo “1945 Việt Nam độc lập” (Hồ Chí Minh Toàn tập, tập 3, Nxb CTQG H.2011, trang 267).
Ngay khi về nước, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc và Trung ương Đảng trong Hội nghị họp ở Pác Bó (tháng 5/1941) đã phân tích tình hình và xác quyết “Cuộc đế quốc chiến tranh này là cuộc xâu xé quyền lợi giữa hai đế quốc, đều vì mục đích tham lam, muốn cướp giật và giành thuộc địa, thị trường của nhau”, đó là điều kiện “thuận lợi cho cách mạng thế giới”; “Nếu cuộc đế quốc chiến tranh lần trước đã đẻ ra Liên Xô, một nước xã hội chủ nghĩa, thì cuộc đế quốc chiến tranh lần này sẽ đẻ ra nhiều nước xã hội chủ nghĩa, cách mạng ở nhiều nước sẽ thành công”; các dân tộc Đông Dương lúc này phải thấy rõ, quyền lợi của bộ phận, của giai cấp phải đặt dưới sự sinh tử, tồn vong của quốc gia, của dân tộc. Trong lúc này nếu không giải quyết được vấn đề dân tộc giải phóng, không đòi được độc lập, tự do cho toàn thể dân tộc, thì chẳng những toàn thể quốc gia dân tộc còn chịu mãi kiếp ngựa trâu, mà quyền lợi của bộ phận, giai cấp đến vạn năm cũng không đòi lại được” (Văn kiện Đảng tập 7, Nxb CTQG H.2000 trang 97-113)
Trong thư “Kính cáo đồng bào” ngày 6 tháng 6 năm 1941, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc yêu cầu: “Trong lúc này quyền lợi dân tộc giải phóng cao hơn hết thảy. Chúng ta phải đoàn kết lại đánh đổ bọn đế quốc và bọn Việt gian đặng cứu giống nòi ra khỏi nước sôi lửa nóng”; trên báo Việt Nam độc lập số 113 ra ngày 21/12/1941, Người chỉ rõ “phận sự dân ta” là phải: “Đồng tâm hợp lực. Muôn người một lòng. Nhân cơ hội này mà khôi phục lại Tổ quốc, mà làm cho Việt Nam hoàn toàn độc lập”. Người chúc tết năm mới 1942 với quyết đoán: “Nga nhất định thắng, Đức nhất định bại. Anh-Mỹ sẽ được, Nhật Bản sẽ thua. Đó là một dịp rất tốt cho dân ta khởi nghĩa đánh đuổi Pháp, Nhật, làm cho Tổ quốc ta được độc lập, tự do” (Báo Việt Nam độc lập, số 114, ngày 1/1/1942).
Khi chiến tranh thế giới đi vào giai đoạn kết thúc, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc càng thấy rõ “Phe xâm lược gần đến ngày bị tiêu diệt. Các Đồng minh quốc sắp tranh được sự thắng lợi cuối cùng”; Người có “Thư gửi đồng bào toàn quốc” (tháng 10/1944) nhắc nhở: “Thời gian rất gấp. Ta phải làm nhanh!”. Người cùng Đảng và Việt Minh nêu cao ý chí quyết tâm “Dù đốt cháy cả dãy Trường Sơn cũng phải kiên quyết giành cho được độc lập”.
Nghe tin Nhật đầu hàng, ngày 13 tháng 8 năm1945 Đảng triệu tập Hội nghị Toàn quốc quyết định phát động Tổng khởi nghĩa; ngay sau đó, Tổng bộ Việt Minh triệu tập Quốc dân đại hội thống nhất dân tộc trước giờ hành động; Chủ tịch Ủy ban dân tộc giải phóng, lãnh tụ Hồ Chí Minh kêu gọi: “Toàn quốc đồng bào hãy đứng dậy đem sức ta mà tự giải phóng cho ta”.
Tổng khởi nghĩa giamhf chính quyền tại Hà Nội
Tại Hà Nội, thủ phủ của chính quyền thuộc địa, từ chiều ngày 17 tháng 8, Tổng hội công chức tổ chức mít tinh tại Nhà hát lớn; hàng vạn quần chúng khắp nơi kéo về thành phố, cả lính bảo an, cảnh sát cũng đến giữ trật tự; Khâm sai Bắc Kỳ xin từ chức. Sáng sớm ngày 19 tháng 8, cả Hà Nội rực màu cờ đỏ sao vàng; hàng chục vạn nhân dân nội, ngoại thành xuống đường biểu dương lực lượng, rồi tỏa đi các nơi để giành chính quyền.
Tại Huế, kinh đô của nhà nước phong kiến, chiều ngày 23 tháng 8 hàng vạn nhân dân Thừa Thiên-Huế tập trung thành hàng ngũ chỉnh tề dưới rừng cờ đỏ sao vàng ở sân vận động, biến cuộc mít tinh của Chính phủ Trần Trọng Kim thành cuộc biểu dương lực lượng cách mạng; Ủy ban khởi nghĩa tuyên bố chính quyền về tay nhân dân. Chiều 30 tháng 8 năm1945, lễ thoái vị của vua Bảo Đại được tổ chức ngay tại Ngọ Môn trong Kinh thành, đánh dấu sự cáo chung của chế độ phong kiến Việt Nam.
Biết Nhật đầu hàng, Xứ ủy Nam kỳ triệu tập hội nghị ở làng Tân Nhật bên sông Chợ Đệm để chớp thời cơ đứng lên giành chính quyền, song từ bài học xương máu của Khởi nghĩa Nam kỳ 1940, những người lãnh đạo cách mạng đã phải cẩn trọng. Cuộc họp ngày 16 tháng 8 chỉ quyết định đẩy mạnh hơn nữa chuẩn bị khởi nghĩa và chờ đợi tình hình. Cuộc họp lần 2 ngày 21thang 8 đã tự tin hơn, khi biết Hà Nội khởi nghĩa thành công, song vẫn lo quân địch còn đông sẽ chống cự gây đổ máu, nên đã quyết định thí điểm khởi nghĩa ở Tân An. Cuộc họp lần thứ 3 vào ngày 23 tháng 8 khi Tân An khởi nghĩa thành công, Xứ ủy mới quyết định dứt khoát phải giành chính quyền ở Sài Gòn ngay trong đêm 24 tháng 8.
Từ chiều 24 tháng 8 Thanh niên Tiền phong xung kích, Tổng Công đoàn, các đoàn thể Việt Minh chiếm giữ dinh Khâm sai và các vị trí quan trọng, xe diễu hành cắm cờ Việt Minh chạy khắp thành phố Hà Nội cùng với lực lượng khởi nghĩa ở các nơi rầm rập kéo về. Sáng sớm ngày 25 tháng 8 khoảng 1 triệu người tham gia biểu tình, tạo thành sức mạnh áp đảo giành chính quyền cai trị. Trong 15 ngày, Tổng khởi nghĩa bùng lên như ngọn lửa thần kỳ loang cháy khắp cánh đồng cỏ khô. Đến ngày 28 tháng 8, từ đất liền đến hải đảo, toàn bộ chính quyền cách mạng đã về tay nhân dân.
Ngày 2 tháng 9 năm 1945 cả nước đón mừng ngày Độc lập, Chính phủ cách mạng lâm thời nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra mắt quốc dân, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn độc lập khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa; một Nước từ máu lửa; rũ bùn đứng dậy sáng lòa. Chủ tịch Hồ Chí Minh từng khẳng định: “Chẳng những giai cấp lao động và nhân dân Việt Nam ta có thể tự hào, mà giai cấp lao động và những dân tộc bị áp bức nơi khác cũng có thể tự hào” về cuộc cách mạng vĩ đại ấy.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn độc lập trên quảng trường Ba Đình lịch sử, ngày 2/9/1945
Ngày nay, đối chiếu với lịch sử dân tộc thế kỷ XX và trước đó cho thấy, Tổng khởi nghĩa tháng Tám 1945 là sự kiện có một không hai trong lịch sử, đã xác lập chính danh nền dân chủ cộng hòa ở Việt Nam, đưa dân tộc vào thời kỳ chấn hưng trong kỷ nguyên mới, sáng tạo một điển hình thành công về cách mạng ở thuộc địa, khai phá thành công mô hình cách mạng xã hội mang bản sắc Việt Nam.