Nông nghiệp sinh thái: Hướng đi tất yếu trong phát triển bền vững và chuyển đổi xanh

Trong bối cảnh biến đổi khí hậu, suy thoái đất và ô nhiễm môi trường ngày càng gia tăng, nông nghiệp sinh thái đang nổi lên như xu thế tất yếu của phát triển bền vững. Từ ngày 10 đến 12/10, đoàn công tác đã có chuyến thực tế tại Trung tâm Nghiên cứu Cây ăn quả và Cây công nghiệp Phủ Quỳ (Nghệ An) và Trung tâm Nghiên cứu Sinh thái Nhân văn vùng cao HEPA (Hà Tĩnh). Chương trình do Mạng lưới Liên minh Học tập Nông nghiệp Sinh thái Đông Nam Á (ALiSEA Việt Nam), Hội Khoa học Phát triển Nông thôn Việt Nam (PHANO), Trung tâm Nghiên cứu Phát triển Nông lâm nghiệp Miền núi (ADC), Viện Nghiên cứu Sinh thái và Chính sách Xã hội (SPERI), và Viện Khoa học Kỹ thuật Nông nghiệp Bắc Trung Bộ (ASINCV) phối hợp tổ chức; với sự hỗ trợ của Chương trình ASSET – Chuyển đổi Nông nghiệp Sinh thái và Hệ thống Thực phẩm An toàn, cùng các nhà tài trợ gồm Cơ quan Phát triển Pháp (AFD), Liên minh châu Âu (EU) – Chương trình DeSIRA, và Quỹ Môi trường Toàn cầu của Pháp (FFEM).
img-1885-1760327515.jpeg

Đại diện Mạng lưới ALiSEA chia sẻ về mô hình nông nghiệp sinh thái tại Trung tâm Nghiên cứu Cây ăn quả và Cây công nghiệp Phủ Quỳ (Nghệ An)

Chuyến đi nhằm tạo cơ hội kết nối, chia sẻ và học hỏi thực tế giữa các thành viên ALiSEA và đội ngũ nhà báo, nhà nghiên cứu quan tâm đến nông nghiệp sinh thái, đồng thời nâng cao nhận thức và thúc đẩy truyền thông tích cực về phát triển nông nghiệp bền vững, tiêu dùng có trách nhiệm và chuyển đổi xanh trong nông nghiệp. Bên cạnh đó, chương trình cũng hướng tới việc giới thiệu các mô hình sản xuất – chế biến – tiêu thụ nông sản theo hướng sinh thái, hữu cơ và tuần hoàn, qua đó lan tỏa tinh thần và giá trị cốt lõi của “Hướng dẫn ASEAN về chính sách chuyển đổi nông nghiệp sinh thái” – một định hướng chiến lược cho tương lai nông nghiệp bền vững của khu vực.

Từ sau khi được ASEAN chính thức thông qua tại Hội nghị Bộ trưởng Nông nghiệp và Lâm nghiệp (AMAF) lần thứ 45 (8/2024), “Hướng dẫn về Chính sách cho chuyển đổi Nông nghiệp sinh thái” đã trở thành văn kiện định hướng quan trọng, phản ánh tầm nhìn chung của khu vực về phát triển nông nghiệp bền vững, công bằng và thích ứng với biến đổi khí hậu. Nông nghiệp sinh thái (NNST) không chỉ là phương thức sản xuất mới, mà là cuộc chuyển đổi tổng thể – từ tư duy phát triển đến cách thức tổ chức hệ thống lương thực – thực phẩm, hướng đến cân bằng giữa năng suất, môi trường và sinh kế con người.

img-1886-1760327540.jpeg

Bà Phạm Thị Sâm - Phó Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu Cây ăn quả và Cây công nghiệp Phủ Quỳ (Nghệ An) chia sẻ về quá trình nghiên cứu, chọn tạo và phát triển các giống cây trồng phù hợp với điều kiện sinh thái địa phương

Theo định nghĩa của ASEAN, NNST là mô hình tối ưu hóa mối quan hệ giữa con người – đất – nước – hệ vi sinh vật, dựa trên nguyên tắc đa dạng sinh học, tiết kiệm và tuần hoàn tài nguyên, công bằng xã hội và tôn trọng văn hóa bản địa. NNST không phủ định vai trò của khoa học công nghệ hiện đại, mà kết hợp hài hòa với tri thức địa phương để hình thành một nền nông nghiệp “xanh – thông minh – có trách nhiệm”.

“Hướng dẫn ASEAN” xác định một hệ thống các đòn bẩy chính sách nhằm mở rộng quá trình chuyển đổi nông nghiệp sinh thái, bao gồm: lập kế hoạch thống nhất và tích hợp ở tầm quốc gia; làm việc trực tiếp, gắn kết chặt chẽ với nông dân; phát triển các chuỗi giá trị thực phẩm bền vững; nâng cao năng lực và chia sẻ tri thức giữa các chủ thể; tăng cường sự tham gia của nhiều bên liên quan; đồng thời thúc đẩy nghiên cứu, đổi mới sáng tạo và xây dựng các cơ chế tài chính xanh hỗ trợ chuyển đổi. Đây là một khung hành động mang tính mở, tạo điều kiện để mỗi quốc gia thành viên ASEAN linh hoạt vận dụng phù hợp với điều kiện và ưu tiên phát triển của mình.

img-1887-1760327540.jpeg

Giống bưởi Hồng Quang Tiến được công nhận là giống sản xuất thử theo Quyết định số 298/QĐ-TT-CCN ngày 12/7/2012 của Cục Trồng trọt, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, do Trung tâm Nghiên cứu Cây ăn quả và Cây công nghiệp Phủ Quỳ chọn tạo.

Thực tế tại Trung tâm Nghiên cứu Cây ăn quả và Cây công nghiệp Phù Quỳ (Nghệ An) cho thấy rõ rằng việc gắn nghiên cứu, chọn tạo giống cây trồng mới với nhu cầu thực tiễn sản xuất và thị trường đã mang lại hiệu quả thiết thực. Trung tâm không chỉ là nơi bảo tồn, nhân giống các loại cây ăn quả và cây công nghiệp chủ lực như cam, bưởi, chè, cà phê, mà còn là “cầu nối” chuyển giao tiến bộ kỹ thuật đến nông dân và doanh nghiệp trên địa bàn miền Tây Nghệ An.

Thông qua hoạt động nghiên cứu – thực nghiệm – chuyển giao, Trung tâm đã hình thành mô hình sản xuất giống theo chuỗi khép kín: từ khảo nghiệm, chọn lọc, nhân giống đến đào tạo kỹ thuật cho người trồng. Việc áp dụng công nghệ nuôi cấy mô, kỹ thuật ghép cải tiến, kiểm soát nguồn gen và quy trình sản xuất an toàn đã giúp nâng cao chất lượng giống, giảm tỷ lệ thoái hóa, đồng thời tăng năng suất, chất lượng và khả năng thích ứng với biến đổi khí hậu.

Không dừng lại ở khâu kỹ thuật, Trung tâm còn chú trọng liên kết với các hợp tác xã, doanh nghiệp nông nghiệp để hình thành vùng nguyên liệu tập trung, đáp ứng tiêu chuẩn VietGAP, GlobalGAP. Nhờ đó, nhiều loại cây trồng đặc sản của Nghệ An như cam Phủ Quỳ, bưởi Diễn Nghĩa Đàn, chè Cầu Đất, cà phê Arabica Khe Sanh… đã được khẳng định thương hiệu, mở rộng thị trường tiêu thụ trong và ngoài nước.

img-1889-1760327539.jpeg

Giống sắn Nghệ An được đánh giá có năng suất cao, phù hợp với điều kiện thổ nhưỡng của khu vực trung du và miền núi phía Tây Nghệ An. Ảnh: Trung tâm Nghiên cứu Cây ăn quả và Cây công nghiệp Phủ Quỳ cung cấp

Những kết quả trên khẳng định tầm quan trọng của khoa học – công nghệ trong phát triển nông nghiệp hiện đại. Đổi mới giống cây trồng không chỉ là khâu đầu tiên, mà còn là nền tảng bảo đảm năng suất, chất lượng, hiệu quả kinh tế và khả năng cạnh tranh của sản phẩm nông nghiệp. Mỗi tiến bộ về giống, về quy trình kỹ thuật hay về mô hình liên kết sản xuất đều trực tiếp góp phần nâng cao thu nhập cho người nông dân, thúc đẩy chuyển đổi cơ cấu cây trồng theo hướng hàng hóa, gắn với công nghiệp chế biến và xuất khẩu.

Trong bối cảnh biến đổi khí hậu, dịch bệnh và yêu cầu hội nhập ngày càng cao, việc hình thành các trung tâm nghiên cứu giống cây trồng chuyên sâu như Phủ Quỳ có ý nghĩa chiến lược. Đây là “bệ đỡ” để ngành nông nghiệp từng bước chuyển từ nền sản xuất truyền thống sang nông nghiệp công nghệ cao, nông nghiệp sinh thái và kinh tế tuần hoàn. Thực tiễn Nghệ An cũng cho thấy: khi Nhà nước, nhà khoa học, doanh nghiệp và nông dân cùng tham gia vào chuỗi giá trị – tức là phát huy đầy đủ vai trò “bốn nhà” – thì năng lực đổi mới sáng tạo trong nông nghiệp được kích hoạt mạnh mẽ.

Từ góc độ quản lý, cần tiếp tục hoàn thiện cơ chế, chính sách khuyến khích đầu tư vào lĩnh vực giống cây trồng, nhất là các chính sách ưu đãi về đất đai, tín dụng, thuế và hỗ trợ chuyển giao công nghệ. Bên cạnh đó, cần đẩy mạnh đào tạo nguồn nhân lực kỹ thuật cao, xây dựng mạng lưới nghiên cứu và sản xuất giống có sự phối hợp giữa các viện, trường, doanh nghiệp và địa phương.

Kinh nghiệm từ Trung tâm Phủ Quỳ cũng là minh chứng cho thấy, phát triển nông nghiệp công nghệ cao không thể chỉ trông chờ vào các dự án lớn, mà cần bắt đầu từ những việc cụ thể, thiết thực: chuẩn hóa quy trình sản xuất, quản lý nguồn giống, ứng dụng công nghệ sinh học, số hóa dữ liệu sản xuất và kết nối thị trường tiêu thụ. Mỗi địa phương nếu biết tận dụng lợi thế vùng sinh thái, chọn đúng cây trồng chủ lực, đồng thời đặt nền móng bằng khoa học công nghệ, thì hoàn toàn có thể tạo ra bước đột phá trong phát triển nông nghiệp bền vững.

Phát triển giống cây trồng chất lượng cao không chỉ là vấn đề kinh tế mà còn là nhiệm vụ chính trị – xã hội quan trọng trong chiến lược bảo đảm an ninh lương thực quốc gia, bảo vệ môi trường sinh thái và nâng cao đời sống nhân dân nông thôn. Từ thực tế Phủ Quỳ, có thể khẳng định rằng, khi khoa học công nghệ được đặt đúng vị trí trung tâm của quá trình sản xuất, nông nghiệp Việt Nam sẽ có đủ cơ sở để bước vào giai đoạn phát triển mới – hiện đại, hiệu quả và bền vững hơn.

img-1883-1760327540.jpeg

Đoàn công tác chụp ảnh kỷ niệm tại khu vực suối thuộc Khu Thực hành Sinh thái – Nhân văn vùng cao HEPA

Trong khi đó, Khu thực hành sinh thái nhân văn vùng cao HEPA (xã Sơn Kim 1, Hà Tĩnh) là mô hình độc đáo về “quản trị cảnh quan tổng thể phục hồi Sinh thái rừng tự nhiên sau 20 năm”. Trung tâm đã kết hợp bảo tồn rừng và đa dạng sinh học, phục hồi rừng tự nhiên và các dịch vụ hệ sinh thái (nguồn nước, thảm thực vật dưới tán rừng được bồi đắp nguồn dinh dưỡng tự nhiên từ rừng phát triển các mô hình nông hộ sinh thái với nguồn đầu vào hoàn toàn tự nhiên và tuân thủ các nguyên tắc 3 không: không thuốc diệt cỏ, không phân bón hóa học và thuốc trừ sâu, không sử dụng tăng trọng và nguồn biến đổi gen), phát triển các sản phẩm hữu cơ sinh thái và giáo dục bảo tồn Hệ sinh thái, đa dạng sinh học cho cộng đồng và nhiều nhóm xã hội quan tâm. HEPA được xem như một môi trường “trường học thực địa” cho nông dân, thanh niên và sinh viên  – nơi mọi người được học cách sống hài hòa với thiên nhiên, canh tác bền vững, tối giản và xanh hóa trong lối sống và hiểu sâu hơn giá trị của các nguồn tài nguyên bản địa. Cách làm này phản ánh đúng tinh thần của hướng dẫn ASEAN về “xây dựng năng lực, đồng sáng tạo tri thức và lan tỏa mô hình tốt”.

810150231788dfa64480ad3cf00ae8eb-1760327540.jpeg

Đoàn công tác nghe chia sẻ về công tác nhân giống tại vườn ươm, đồng thời chụp ảnh kỷ niệm tại khu vực suối thuộc Khu Thực hành Sinh thái – Nhân văn vùng cao HEPA

Những trải nghiệm thực tế ấy giúp khẳng định rằng Việt Nam hoàn toàn có điều kiện để hiện thực hóa tầm nhìn nông nghiệp sinh thái khu vực. Chủ trương “phát triển nông nghiệp sinh thái, nông thôn hiện đại, nông dân văn minh” mà Đảng ta đề ra không chỉ tương thích mà còn cụ thể hóa định hướng của ASEAN bằng hành động thực tiễn. Nhiều địa phương trong cả nước đang chuyển mình mạnh mẽ theo hướng sản xuất hữu cơ, giảm phát thải, xây dựng chuỗi giá trị ngắn, gắn nông nghiệp với du lịch sinh thái và OCOP.

Có thể nói, ASEAN đã đưa ra khung lý luận và phương hướng hành động rõ ràng; còn Việt Nam đang từng bước chứng minh năng lực triển khai bằng những mô hình thực tiễn cụ thể. Nông nghiệp sinh thái không chỉ là xu hướng, mà là yêu cầu sống còn nếu chúng ta muốn bảo vệ môi trường, nâng cao chất lượng cuộc sống và đảm bảo sinh kế bền vững cho người dân.

Từ những cánh rừng và hệ sinh thái tự nhiên được phục hồi ở HEPA đến những luống giống xanh ở Phủ Quỳ, bài học lớn nhất được rút ra là: nông nghiệp chỉ thực sự phát triển khi con người biết trở lại với tự nhiên bằng tri thức, trách nhiệm và niềm tin và có sự tham gia hợp lực của nhiều thành phần xã hội cùng chung tay giúp sức đoàn kết cùng kiến tạo giá trị chung. Đó cũng là con đường mà ASEAN đang cùng nhau bước tới – một nền nông nghiệp hài hòa, bền vững và nhân văn.

CHƯƠNG TRÌNH THAM QUAN VÀ TRAO ĐỔI THỰC TẾ CỦA THÀNH VIÊN ALiSEA VÀ NHÀ BÁO VỀ NÔNG NGHIỆP SINH THÁI

(ALiSEA Members & Journalists Field Visit and Exchange Program on Agroecology)

🌿 ALiSEA: ali-sea.org

📅 Thời gian: 10 – 12 tháng 10 năm 2025

📍 Địa điểm: Trung tâm Nghiên cứu Cây Ăn quả và Cây Công nghiệp Phủ Quỳ, thuộc Viện Khoa học Kỹ thuật Nông nghiệp Bắc Trung Bộ, tỉnh Nghệ An

Khu Bảo tồn Sinh thái nhân văn Vùng cao HEPA, thuộc Viện Nghiên cứu Sinh thái và Chính sách Xã hội (SPERI), tỉnh Hà Tĩnh