Thúc đẩy thực thi các chính sách đào tạo nghề nông nghiệp cho lao động nông thôn thuộc diện hộ nghèo, hộ cận nghèo, hộ mới thoát nghèo và người lao động có thu nhập thấp

Đào tạo nghề - “cần câu cơm” giúp cải thiện cuộc sống

Tại HTX nông nghiệp Nhân Lý (xã Xuân Lãng, tỉnh Phú Thọ), bà Lê Thị Hương, trước đây vốn là một hộ nghèo, sau khi tham gia HTX và các khóa học nghề bà đã biết cách làm đất, xuống giống đúng thời điểm, dùng phân hữu cơ, áp dụng cơ giới hóa, từ đó giúp giảm chi phí, tăng chất lượng nông sản và thu nhập gia đình cao gấp 3 lần so với trước đây (Thu Hà, 2025). Tương tự, anh Cà Văn Cử, người dân tộc Thái (bản Mòn, xã Mường Bú, tỉnh Sơn La) cho biết: nhờ tham gia các lớp học kiến thức trồng trọt do xã tổ chức, anh đã mạnh dạn đầu tư trồng hơn 2 ha cây ăn quả các loại như ổi, mít Thái, chanh Tứ quý, nhãn ghép,… nuôi lợn và 60 m2 ao thả cá. Mô hình vườn - ao - chuồng mang lại cho anh thu nhập gần 400 triệu đồng/năm, trừ chi phí, lãi ròng đạt khoảng 60% (Trọng Nghĩa, 2025). Đây chỉ là 2 trong hàng ngàn trường hợp đã thay đổi cuộc sống của bản thân và gia đình nhờ được đào tạo nghề, tiếp thu kiến thức và áp dụng thành công vào thực tiễn.

Trên địa bàn cả nước, tỷ lệ nghèo đa chiều đã giảm từ 9,35% năm 2022 xuống còn 4,06% năm 2024; tỷ lệ hộ nghèo theo chuẩn đa chiều giảm từ 4,03% xuống 1,93% cùng giai đoạn. Nhóm hộ nghèo dân tộc thiểu số, khu vực khó giảm nhất, cũng ghi nhận mức giảm bình quân 4,3%/năm, từ 21,29% xuống 12,55% trong vòng hai năm (Hoàng Minh, 2025). Bên cạnh đó, hơn 1.200 lớp đào tạo nghề dành cho lao động nghèo đã được triển khai, giúp người học có thêm kỹ năng và cơ hội việc làm ổn định. Kết quả khảo sát của Cục Việc làm (Bộ Nội vụ) cho thấy, gần 80% học viên sau đào tạo có việc làm ngay hoặc tự khởi nghiệp tại địa phương (Thanh Thủy, 2025). Những kết quả giảm nghèo ấn tượng ở trên một phần đến từ các chương trình đào tạo nghề hiệu quả, đặc biệt khi được triển khai đồng bộ với các chương trình phát triển sinh kế và xây dựng nông thôn. Do đó, cần tiếp tục đẩy mạnh thực thi các chính sách đào tạo nghề nông nghiệp nhằm hướng tới mục tiêu giảm nghèo bền vững ở Việt Nam.

Chính sách hỗ trợ đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng

Quyết định 63/2015/QĐ-TTg ngày 10/12/2015 ban hành về chính sách hỗ trợ đào tạo nghề và giải quyết việc làm cho người lao động bị thu hồi đất.

Người lao động bị thu hồi đất nông nghiệp đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng được hỗ trợ theo quy định tại Nghị định số 61/2015/NĐ-CP ngày 09 tháng 07 năm 2015 của Chính phủ về chính sách hỗ trợ tạo việc làm và Quỹ quốc gia về việc làm.

Người lao động bị thu hồi đất thuộc các huyện nghèo được hỗ trợ đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng theo quy định của các chính sách hỗ trợ ở các huyện nghèo.

Người lao động bị thu hồi đất được hỗ trợ về tư vấn, định hướng nghề nghiệp và giới thiệu việc làm miễn phí tại các Trung tâm dịch vụ việc làm và vay vốn ưu đãi từ Quỹ quốc gia về việc làm theo quy định của pháp luật.

Người lao động bị thu hồi đất tham gia đào tạo nghề được hỗ trợ đào tạo trình độ sơ cấp, đào tạo dưới 3 tháng và hỗ trợ học phí cho một khóa học đào tạo trình độ trung cấp, cao đẳng.

Điều 9, Luật Việc làm số 74/2025/QH15 ngày 16/06/2025

Người lao động đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng có thể vay vốn hỗ trợ để chi phí cho việc xuất khẩu lao động.

Đặc biệt, người lao động là người dân tộc thiểu số thuộc hộ nghèo, người dân tộc Kinh thuộc hộ nghèo sống tại các địa bàn có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn sẽ được vay vốn với mức lãi suất thấp hơn.

Ngoài ra, Chính phủ có thể quyết định các đối tượng khác được vay vốn ưu đãi căn cứ vào tình hình kinh tế - xã hội.

Quy định về đào tạo nghề nghiệp và phát triển kỹ năng nghề

Luật lao động 2019/QH14.

Người lao động được tự do lựa chọn đào tạo nghề nghiệp, tham gia đánh giá, công nhận kỹ năng nghề quốc gia, phát triển năng lực nghề nghiệp phù hợp với nhu cầu việc làm và khả năng của mình.

Chính sách quy định định mức hỗ trợ đào tạo trình độ sơ cấp, đào tạo dưới 03 tháng

Quyết định 46/2015/QĐ-TTg ngày 28/09/2015 quy định chính sách hỗ trợ đào tạo trình độ sơ cấp, đào tạo dưới 03 tháng.

Người thuộc hộ đồng bào dân tộc thiểu số nghèo; người thuộc hộ nghèo ở các xã, thôn, bản đặc biệt khó khăn theo quy định của Thủ tướng Chính phủ: Mức tối đa 04 triệu đồng/người/khóa học.

Người dân tộc thiểu số, người thuộc diện được hưởng chính sách ưu đãi người có công với cách mạng, người thuộc hộ nghèo, người thuộc hộ gia đình bị thu hồi đất nông nghiệp, đất kinh doanh, lao động nữ bị mất việc làm, ngư dân: Mức tối đa 03 triệu đồng/người/khóa học.

Người thuộc hộ cận nghèo: Mức tối đa 2,5 triệu đồng/người/khóa học.

dtao1-1766026979.png

Đào tạo nghề cho lao động nông thôn ở Phú Yên (Nguồn: Tường Quân - Tạp chí Chính sách và Cuộc sống)

Quy định về văn bằng, chứng chỉ giáo dục nghề nghiệp

Luật giáo dục nghề nghiệp.

Người học học hết chương trình đào tạo trình độ sơ cấp có đủ điều kiện thì được kiểm tra hoặc thi kết thúc khóa học, nếu đạt yêu cầu thì được người đứng đầu cơ sở giáo dục nghề nghiệp, doanh nghiệp được phép hoạt động đào tạo nghề nghiệp cấp chứng chỉ sơ cấp.

Nghề đào tạo nông nghiệp

Quyết định 1952/QĐ-LĐTBXH ngày 19/12/2017 ban hành kế hoạch thực hiện “nâng cao chất lượng đào tạo nghề cho lao động nông thôn” thuộc chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2016-2020.

Tập trung đào tạo nghề nông nghiệp cho lao động làm việc ở các trang trại, doanh nghiệp, hợp tác xã. Đào tạo nghề nông nghiệp cho lao động nông thôn để thực hiện tái cơ cấu ngành nông nghiệp, nông nghiệp công nghệ cao, sản xuất nông nghiệp sạch, nông nghiệp hữu cơ, tiến tới nông nghiệp thông minh hiện đại, trên cơ sở bám vào 3 trục sản phẩm là: sản phẩm nông sản quốc gia, sản phẩm nông sản cấp tỉnh và sản phẩm đặc sản địa phương (OCOP).

Quyết định số 2246/QĐ-BNN-KTHT ban hành kế hoạch thực hiện nghị quyết số 1033-NQ/BCSĐ ngày 20/4/2020 của ban cán sự đảng bộ nông nghiệp và phát triển nông thôn về đổi mới, nâng cao chất lượng đào tạo nghề nông nghiệp cho lao động nông thôn giai đoạn 2021-2025

Kế hoạch đặt mục tiêu đưa đào tạo nghề gắn chặt với tái cơ cấu ngành và Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới, với chỉ tiêu đào tạo 1 triệu lao động nông thôn trong giai đoạn, tập trung vào phát triển nông nghiệp hàng hóa quy mô lớn, nông nghiệp công nghệ cao, cơ giới hóa, chế biến, liên kết chuỗi giá trị và quản trị hợp tác xã, trang trại, doanh nghiệp nông nghiệp. Nội dung triển khai bao gồm: xây dựng Đề án đổi mới đào tạo nghề nông nghiệp; ban hành tiêu chí đánh giá hiệu quả đào tạo; rà soát và xác định danh mục nghề ưu tiên, chuẩn đầu ra, chương trình – giáo trình, định mức kinh tế kỹ thuật và danh mục thiết bị tối thiểu; phát triển các hình thức đào tạo từ xa, trực tuyến có video, truyền hình; tăng cường tuyên truyền, tôn vinh điển hình; đầu tư cơ sở vật chất cho 35 trường trực thuộc Bộ; thành lập 4 trung tâm đánh giá và cấp chứng chỉ kỹ năng nghề quốc gia cho nghề nông nghiệp; tập huấn nâng cao năng lực cho cán bộ địa phương; mở rộng hợp tác trong nước và quốc tế

Quyết định số 3685/QĐ-BNN-KTHT ngày 29/9/2022 phê duyệt Kế hoạch đào tạo nghề nông nghiệp cho lao động nông thôn giai đoạn 2022–2025, gắn chặt với 3 Chương trình mục tiêu quốc gia (xây dựng nông thôn mới, giảm nghèo bền vững, phát triển KT-XH vùng DTTS & miền núi) và Chiến lược phát triển kinh tế tập thể, hợp tác xã. Kế hoạch đặt mục tiêu đào tạo 910.400 lao động nông thôn trình độ sơ cấp và đào tạo thường xuyên, trong đó có 17.764 lượt đào tạo “Giám đốc HTX nông nghiệp” nhằm hiện thực hóa mục tiêu “80% giám đốc HTX được đào tạo sơ cấp nghề”. Trọng tâm là lao động trong vùng nguyên liệu nông, lâm, thủy sản; vùng đồng bào dân tộc thiểu số, miền núi; hộ nghèo, cận nghèo, mới thoát nghèo, lao động thu nhập thấp, đồng thời thí điểm đào tạo để đưa lao động nông nghiệp đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng.

Chỉ thị số 37-CT/TW ngày 10/7/2024 của Ban Bí thư yêu cầu đổi mới mạnh mẽ công tác đào tạo nghề cho lao động nông thôn nhằm đáp ứng quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn. Chỉ thị nhấn mạnh chất lượng đào tạo còn hạn chế, nhất là ở vùng sâu, vùng xa; hỗ trợ sau học nghề chưa hiệu quả. Ban Bí thư yêu cầu chuẩn hoá chương trình, tăng thực hành, ứng dụng công nghệ cao và chuyển đổi số; mở rộng đào tạo trung cấp, cao đẳng và gắn đào tạo với mô hình sản xuất thực tiễn. Ưu tiên đào tạo cho hộ nghèo, cận nghèo, đồng bào dân tộc thiểu số, người khuyết tật và các đối tượng chính sách; đồng thời tăng cường lãnh đạo, giám sát, hoàn thiện chính sách hỗ trợ đào tạo chuyển đổi nghề, huy động doanh nghiệp, HTX và chuyên gia tham gia. Chỉ thị tạo định hướng trọng tâm để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực nông thôn, phục vụ tái cơ cấu ngành và phát triển kinh tế nông thôn bền vững.

Chính sách hỗ trợ đầu tư phát triển hạ tầng kinh tế - xã hội các huyện nghèo, các xã đặc biệt khó khăn vùng bãi ngang, ven biển và hải đảo

Quyết định số 90/QĐ-TTg ngày 18/01/2022 ban hành về phê duyệt Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững giai đoạn 2021 - 2025.

Tiểu dự án 1: Phát triển giáo dục nghề nghiệp vùng nghèo, vùng khó khăn

+ Xây dựng các chuẩn về giáo dục nghề nghiệp (gồm: tiêu chuẩn kỹ năng nghề; định mức kinh tế - kỹ thuật; quy định kiến thức tối thiểu, yêu cầu về năng lực mà người học đạt được sau tốt nghiệp; danh mục thiết bị đào tạo tối thiểu; tiêu chuẩn cơ sở vật chất trong thực hành, thực nghiệm và thí nghiệm; giá tối đa dịch vụ giáo dục nghề nghiệp sử dụng ngân sách nhà nước); phát triển hệ thống đánh giá cấp chứng chỉ kỹ năng nghề quốc gia và hệ thống bảo đảm chất lượng giáo dục nghề nghiệp; phát triển chương trình, học liệu; phát triển nhà giáo và cán bộ quản lý phù hợp với đối tượng, trình độ phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn tỉnh có huyện nghèo;

+ Khảo sát, thống kê, dự báo nhu cầu học nghề; truyền thông, hướng nghiệp, hỗ trợ khởi nghiệp và tạo việc làm trên địa bàn tỉnh có huyện nghèo;

+ Phát triển mô hình gắn kết giáo dục nghề nghiệp với doanh nghiệp, hợp tác xã trên địa bàn tỉnh có huyện nghèo;

+ Đào tạo nghề cho người lao động thuộc hộ nghèo, hộ cận nghèo, hộ mới thoát nghèo, người lao động có thu nhập thấp.

Quyết định 02/2022/QĐ-TTg ngày 18/01/2022 quy định nguyên tắc, tiêu chí và định mức phân bổ vốn ngân sách trung ương, cùng tỷ lệ vốn đối ứng của địa phương để thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững giai đoạn 2021–2025, trong đó ưu tiên vốn bố trí thêm nguồn vốn cho các huyện nghèo, xã đặc biệt khó khăn vùng bãi ngang, ven biển và hải đảo được cấp có thẩm quyền phê duyệt. Vốn được phân bổ dựa trên các tiêu chí: quy mô dân số, tỷ lệ và số hộ nghèo – cận nghèo, đặc điểm địa lý (miền núi, biên giới, hải đảo), số đơn vị hành chính, số huyện nghèo, số xã ĐBKK… với hệ số và công thức tính cụ thể cho từng dự án, tiểu dự án (hạ tầng, sinh kế, sản xuất nông nghiệp, dinh dưỡng, giáo dục nghề nghiệp, việc làm, nhà ở, truyền thông, nâng cao năng lực). Quyết định cũng quy định rõ mức đối ứng tối thiểu của ngân sách địa phương theo mức hỗ trợ NSTW, yêu cầu công khai, minh bạch, phân cấp gắn với trách nhiệm của bộ ngành và UBND tỉnh.

Chỉ thị 05-CT/TW ngày 23/6/2021 của Ban Bí thư yêu cầu các cấp uỷ, tổ chức đảng tăng cường lãnh đạo; đẩy mạnh tuyên truyền, nâng cao nhận thức; tiếp tục hoàn thiện chính sách giảm nghèo đa chiều; ưu tiên vùng dân tộc thiểu số, miền núi, biên giới, bãi ngang ven biển và hải đảo; huy động và sử dụng hiệu quả nguồn lực; đổi mới quản lý nhà nước và nhân rộng các mô hình giảm nghèo. Mục tiêu đến năm 2030 là duy trì giảm nghèo đa chiều 1–1,5%/năm và cơ bản không còn huyện nghèo, xã đặc biệt khó khăn.

Có thể thấy, hệ thống chính sách về đào tạo nghề, hỗ trợ sinh kế và giảm nghèo hiện nay đã được ban hành tương đối đầy đủ, từ hỗ trợ học nghề, vay vốn, đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng, đến đào tạo kỹ năng, chuẩn hóa chương trình và đầu tư cơ sở hạ tầng đào tạo nghề ở các vùng còn gặp khó khăn. Đặc biệt, đối tượng lao động thuộc hộ nghèo, cận nghèo, hộ mới thoát nghèo và lao động thu nhập thấp đã được quan tâm và ưu tiên hơn. Thực tiễn cho thấy khi người dân được tiếp cận với đào tạo nghề phù hợp, họ có thể chủ động, tự tin chuyển đổi sinh kế, nâng cao thu nhập, cải thiện đời sống. Tuy vậy, để chính sách đào tạo nghề nông nghiệp cho lao động nông thôn thực sự đi vào cuộc sống một cách hiệu quả, cần tiếp tục đẩy mạnh thực thi, tăng cường phối hợp giữa các cấp, đảm bảo nguồn lực, mở rộng các mô hình gắn kết đào tạo với sản xuất. Chi khi đào tạo nghề được triển khai đồng bộ, hiệu quả và sát với nhu cầu thị trường, mục tiêu giảm nghèo bền vững và phát triển nông thôn hiện đại, văn minh mới có thể đạt được.

Hoàng Minh (13/11/2025) Tỷ lệ nghèo giảm còn 4,06%, mô hình sinh kế vượt 10.500 dự án Tạp chí Kinh tế - Tài chính, truy cập tại https://tapchikinhtetaichinh.vn/ty-le-ngheo-giam-con-4-06-mo-hinh-sinh-ke-vuot-10-500-du-an.html

Thanh Thủy (12/11/2025) Mô hình giảm nghèo bền vững giai đoạn 2021–2025: Bước chuyển từ hỗ trợ sang trao cơ hội Tạp chí Tổ chức Nhà nước và Lao động, truy cập tại https://tcnn.vn/news/detail/70215/Mo-hinh-giam-ngheo-ben-vung-giai-doan-2021%E2%80%932025-Buoc-chuyen-tu-ho-tro-sang-trao-co-hoi.html

Thu Hà (10/08/2025) Nông dân thoát nghèo nhờ được dạy nghề làm nông nghiệp Ban Văn hóa – Xã hội và Dân tộc, truy cập tại https://vov2.vov.vn/doi-song-xa-hoi/nong-dan-thoat-ngheo-nho-duoc-day-nghe-lam-nong-nghiep-54423.vov2

Trọng Nghĩa (27/09/2025) Đào tạo nghề cho lao động nghèo - Chìa khóa để nâng cao thu nhập Tạp chí Kinh tế - Tài chính, truy cập tại https://tapchikinhtetaichinh.vn/dao-tao-nghe-cho-lao-dong-ngheo-chia-khoa-de-nang-cao-thu-nhap.html

Phạm Đức Thịnh, Nguyễn Đức Cảnh, Đào Thị Thanh Tú, Ngô Sỹ Đạt - Viện Kinh tế và Thể chế Nông nghiệp - Học viện Nông nghiệp Việt Nam